Chương 78

Chương 78





Mùa xuân năm Nguyên Phong thứ 5 thời vua Trần Thánh Tông nhà Trần, có tên giặc Trang Páo nổi loạn ở đất Liên Sơn, tự xưng Cung Tĩnh Vương, đồ đảng lên tới hàng vạn, đều là người thượng Lèo. Giặc tràn ra lấn vào đông Gia Lâm, chiếm đến sáu thành trì, mở rộng hàng trăm dặm, quan quân cho tới thường dân đều phải chạy giặc, đường đi chết chóc vô số không kể xiết. Lục gia là quan phụ mẫu ở Gia Lâm, sợ về nạn giặc, bèn sai tướng ở công đường là Bạch Vũ tướng quân Vu Đạt đi chống giữ, Vu Đạt sai quan chấp lệnh Tiết Văn Sử và quan Hộ úy Trình Sang bảo hộ cho dân chạy nạn giặc về Gia Lâm, còn mình mang quân ra cự giặc ở Thành Uất Trì. Quân của Vu Đạt đánh không được lợi, bị thua to, giặc chiếm mất Thành Uất Trì. Vu Đạt bị gọi về Gia Lâm nhưng không về, đem tàn quân sang đất Trường Bình tập hợp lại lực lượng cố thủ ngăn giặc tràn vào. Tiết Văn Sử trong lúc đánh giặc thì bị thương, về Trường Bình trị thương ít ngày rồi về Gia Lâm, Trình Sang dẫn tàn quân về trước.

Lại nói bấy giờ trong số quân người thượng bị Vu Đạt đánh bại hoặc quy hàng, có cả tù binh và những người làm con tin, có quân Nùng của Trịnh Giác Tú, Đạt cho người đem giải vợ con Tú theo quan quân về Gia Lâm. Người vợ của Tú là Vi Lã Ê Là người có phép lạ, truyền rằng ngày xưa cha nàng là tù trưởng Bích Động, mẹ nàng là người nữ nhân trong tộc rất có sắc đẹp, nhưng mãi không sinh nở. Tới ngày nọ hai vợ chồng đi thắp hương khấn xin vị thần đá trên bản là Pan Yay, thì gặp được giấc mộng lành, thần nói kí thác vào trong nhà làm con cho, về sau sinh ra Lã Ê, cả bản đều xem là điều thiêng liêng. Lã Ê lớn lên xinh đẹp khác thường, lại vô cùng tín vào quỷ thánh, sau gả cho Trịnh Giác Tú là người của Bộ tộc khác, từ khi cưới vợ thì Tú đánh đâu được đó, lập nên Hoàng Động, cầm giữ bộ tộc cả mấy ngàn người, cứ thế mở rộng cơ ngơi, càng tin là có phép lạ trên trời giáng xuống, đối xử với vợ rất là ân cần, cho là người trời. Loạn Trang Páo nổi lên, Tú đánh thua trận phải đem vợ con binh sĩ lẩn trốn xuống dưới xuôi, trong lúc cùng khốn thì đêm nọ lại mơ thấy có một con chồn đen đi vào trong trướng, đến sát bên giường ngủ hai vợ chồng, đem trao cho một chiếc gương báu, nói rằng:

– Dùng gương này có thể biến dữ thành lành, tránh được tai nạn.

Tú tỉnh dậy không thấy thần nhân đâu nữa, nhưng lại thấy có gương ở đó, sau gương còn hiện hai chữ “Tri Thời”. Vi Lã Ê rất tín vào giấc mộng, Tú cũng biết có sự cảm ứng của Lã Ê với thần rừng, nên đem gương giao cho vợ giữ gìn, từ đó quả nhiên tránh được nhiều lần quân Lèo tập kích, vợ chồng yên ổn đến vài năm. Sau có Vu Đạt làm tướng đến đánh với Trang Páo, Trịnh Giác Tú đem hết quân ra hàng quân Vu Đạt. Khi bị giặc truy bức, Vu Đạt cử Trịnh Giác Tú cùng mình ở lại chặn giặc, còn Vi Lã Ê thì chạy trước.



Đêm ấy Lã Ê không ngủ được, đến nửa đêm thấy gương tri thời rung lên dữ dội, Lã Ê niệm chú cầu pháp, hỏi an nguy của chồng, gương đổi sang một màu đỏ rực, trên mặt hiện lên chữ “Tử”, Lã Ê thất kinh hồn vía, cứ gào khóc không thôi. Người tộc hết sức dỗ dành, giục đi cho chóng. Đến canh tư rạng sáng thì có tin thám tử báo cấp giặc tập kích phía sau, đại quân đã chặn được giặc nhưng chết rất nhiều, Trịnh Giác Tú bị giặc hại chết trong trận. Lã Ê nghe xong thì đau đớn ngất lịm.

Trình Sang bắt di dân đi cả đêm không dám dừng chân nghỉ, sợ giặc lùa tới, đến khi sáng ngày Lã Ê tỉnh dậy thì đã gần về tới Đông Gia Lâm rồi. Lã Ê toan tự vẫn theo chồng, nhưng đứa con trên giường chợt khóc ré lên. Lã Ê thương xót ôm con vào lòng, thì nó lại nín, nên thôi cũng chùn lòng chẳng còn muốn chết nữa.

Lã Ê đau đớn vô hạn như người chết đi sống lại, chẳng thiết ăn uống, đến khi về Gia Lâm thì được quan phủ bài trí hết cho người Nùng ở với nhau trong một khu nhà, rồi quân sĩ cấp cho đồ ăn thức dùng, không cho ra ngoài đâu cả, ai nấy đều rất sợ hãi, cứ ôm nhau mà chờ đợi.

Đêm ấy Lã Ê ôm con trong lòng, ở riêng phòng kín thì đột nhiên chiếc gương Tri Thời luôn mang sát bên thân có thứ ánh sáng nhàn nhạt mờ dịu thoát ra, lại thấy có một bóng thân ảnh mờ nhạt hiện lên từ trong gương, chỉ thấy một lớp mây mù trắng không rõ nhân dạng, vị ấy phong liễu lăng tằng, ánh nhìn miên man, phảng phất chất chứa, thở dài nói với Lã Ê:

– Trịnh Phu Nhân có nhận ra tôi không?

Lã Ê kinh hoàng lắp bắp nói:

– Ông…là tướng người Lèo…

Vị kia lộ rõ thân ảnh, là vị tướng quân khôi ngô, mặc giáp trắng, ánh mắt sắc xảo, nói:

– Tôi không phải người Lèo. Tôi họ Trịnh, tên Phong, quê ở Thần Châu, Đại Lý. Nước tôi có loạn tôi phải sang đây nương thân, lánh tạm trong quân Lèo. Mẹ tôi là người Thượng nên tôi rất thương mến đồng bào, lại rất trọng vọng uy đức của Lệnh Công. Bản mệnh của tôi gắn liền với gương này, biết Lệnh Công là người có đức lớn, Phu Nhân là người có tín lớn, nên tôi hóa thành con chồn đen mà đem gửi thân cho, còn hồn vẫn ở trong quân Lèo, từ đó nhờ gương này mà liên hệ, mỗi khi quân Lèo định đánh quân Lệnh Công, tôi ở trong quân biết được trước, liền thông tin qua gương này mà để lệnh công biết đường tránh né.

Lã Ê vẫn còn nghi chưa tin, Trịnh Phong bèn trỏ gương nói:

– Phu Nhân hãy xem.

Nói đoạn bảo sắc đỏ, mặt gương liền hóa màu đỏ, lại bảo sắc vàng, mặt gương liền hóa thành vàng, bấy giờ Lã Ê mới dần tin lời. Phong lại nói:

– Lần trước nhập trại, tôi không muốn hại Lệnh Công nên đã bày kế cho Lệnh công đem người Nùng thoát đi an toàn, vậy mà vì sao không tin tôi lại còn quay trở lại trại Vu Đạt, để đến nỗi vong thân?

Lã Ê nhớ lại quả nhiên khi trước Trịnh Phong không có ý giết, bấy giờ mới tin là không có ác ý, khóc thưa rằng:

– Chồng tôi thờ chữ nghĩa, không nỡ phụ Vu tướng quân nên quay về, có biết đâu cơ sự lại thế này?

Phong đáp:

– Vu Đạt là người kinh, bọn người kinh đâu xem người Thượng là người? Chúng chỉ coi như con tốt thì dùng, đến khi không dùng được thì giết bỏ. Vu Đạt biết có quân Lèo truy kích mà lại cử Lệnh Công ở lại chặn hậu, như thế là đem Lệnh Công thí cho quân thù, để bọn chúng chạy trốn, làm sao mà Lệnh Công có thể toàn mạng được đây?

Vi Lã Ê lại đau xót khóc to hơn, Trịnh Phong nói:

– Ngay cả tính mệnh Phu nhân bây giờ cũng khó giữ.

Lã Ê hỏi vì sao, Phong nói:

– Trịnh Lệnh Công chết rồi, bọn thủ hạ mang hết người Nùng đầu hàng người Lèo sau đó. Quân Gia Lâm đang điều tra, nay mai chắc khép tất cả người nhà vào tội hàng giặc, không ai thoát được cả.

Lã Ê bế đứa con nhỏ trong tay, quỳ xuống lạy nói:

– Chồng tôi để lại giọt máu này. Nay chồng chết tôi cũng định chết, đâu có tiếc gì tính mạng? Chỉ thương xót giọt máu này mà thôi. Thần nhân đã thương cho chúng tôi, xin bày cho kế thoát.

Trịnh Phong đáp:

– Trong công đường Gia Lâm có một vị quan gia có thể cứu cho mẹ con cô được. Đó là Lục Báo con của Lục Nghị, vị này rất ghét Vu Đạt, cô cứ đến mà trần tình, sẽ được hắn bao dung thì may ra thoát khỏi tai nạn lớn. Cô hãy dâng gương Tri Thời cho hắn, tôi sẽ có cách giúp cho.

Lã Ê nói:

– Đa tạ ân công chỉ lối. Ơn này, biết trả thế nào?

Trịnh Phong đáp:

– Người tiên đồng khí thì cứu giúp cho nhau, không cần nói chuyện ơn nghĩa làm chi.

Nói rồi tan vào gương.



Tới ngày hôm sau, Lã Ê tháo hết nữ trang vàng bạc trong người, hối lộ cho bọn quan trông coi khu nhà của thân nhân người Nùng, xin nhờ chuyển tin tới chỗ Lục Báo rằng vị phu nhân tộc trưởng người Nùng có món quà lớn muốn dâng tặng. Bấy giờ người Nùng đang bị giám sát nhưng chưa bị kết tội, việc đi lại vẫn còn lơi lỏng. Bọn quan nhân trông coi được vàng bạc, bèn giúp đỡ cho Lã Ê tới gặp Lục Báo.

Lục Báo cho người dẫn đến tiếp kiến, Lã Ê nói:

– Tôi là vợ của tù trưởng người Nùng là Trịnh Giác Tú, chồng tôi bị Vu Đạt đẩy dồn vào con đường chết, lại bị ghép vào tội hàng giặc. nay mẹ con tôi cảnh đàn bà con côi, xin đến nương tựa cửa tướng công, mong tướng công cưu mang. Tôi có một món bảo vật xin đem dâng tướng công làm quà.

Đoạn dâng lên gương Tri Thời, Lục Báo cầm gương ngắm nghía, chợt thấy mê mẩn tâm thần, Lã Ê chỉ cách dùng, Báo nhắm mắt thắp hương, âm thầm khấn vái, hỏi:

– Chuyến này ta có được Gia Lâm hay không?

Thấy mặt gương chuyển thành sắc vàng, rất mừng bèn thu nhận lấy.

Báo lại thấy Vi Lã Ê có sắc đẹp tuyệt vời, bèn ép tư thông cùng. Lã Ê hơn Lục Báo mười một tuổi, vì thương con đành ngậm đắng nuốt cay hầu hạ công tử họ Lục. Sau đó công đường nghị tội những kẻ theo hàng giặc khi đánh trận, Lục Báo thầm sai thủ hạ là Sát xứ Hải Nhuận kết tội bọn quân lính Nùng của Giác Tú hàng giặc, nên đem giết hết vợ con chúng đi để trừng trị, tất cả hàng tù và thân nhân người Nùng di dân về Gia Lâm đều bị Lục Báo sai người giết hết, riêng có Vi Lã Ê và con trai thoát nạn. Đây là một sự oan khiên lớn và tiếc nuối dưới thời Nguyên Phong, ba mươi năm sau, con Giác Tú là Giác Mật vùng lên khởi nghĩa trả thù cho bộ tộc, khiến cả đất Gia Lâm một phen nghiêng ngả, kinh động tới cả triều đình Thăng Long, có lẽ cũng vì mối thù này.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.