Đêm ấy Đạt ngủ say giấc trong trướng, đang nửa đêm chợt nghe gió lạnh lẽo thốc vào buốt cả tim óc, Đạt bủn chân rùng mình ngồi bật dậy. Đoạn mở mắt pháp xem xét, thấy có yêu khí nổi lên, nhưng cũng không sợ lắm, tay với lấy thanh kiếm khi nào ngủ cũng dựng đầu giường thủ thế.
Từ cửa trướng, gió lạnh mang âm khí lại tràn vào thêm nữa, rồi từ từ một bóng người khi ẩn khi mờ hiện ra trong làn sương khói mù trắng lạnh lẽo. Đạt rút kiếm trỏ vào hỏi:
– Hồn ma bóng quế ở đâu thế? Có biết bổn tướng đi đánh giặc không mà dám vào đây, không sợ hay sao?
Bóng ma đã bước vào hẳn, vẫn đứng yên trên thềm, mắt nhìn Đạt đăm đăm. Đạt trỏ kiếm vào nó, nói:
– Hay là yêu phép của giặc Hồ chăng?
Rồi toan nhảy lên chém bóng, hồn ma chợt lùi lại, khuôn mặt sầu thảm tới khôn cùng, bảo:
– Hãy hạ kiếm xuống đi, kẻo phạm vào bất hiếu thì phải vào địa ngục, ta là mẹ của con đấy.
Đạt nghe thế rồi tâm can tự nhiên rung động, ngồi chôn chân tại chỗ. Hồn đột nhiên khóc nấc, phủ phục xuống dưới thềm, đau đớn thốt lên:
– Con nay đã lớn khôn nên người rồi, lại hào hùng thế này, lòng mẹ cha nào mà mừng hơn vậy, có dưới suối vàng cũng cam tâm được.
Hồn ấy là hồn của Tứ Nương, chính là mẹ thân sinh ra Vu Đạt.
Tứ Nương bèn kể lại rành rẽ việc ngày xưa gặp Vu Chấn trên sông này thế nào, kế đó về đất An Định làm dâu ra sao, ngày sau bị quan hương là Hà Thanh cấu kết cùng tên lái buôn họ Tăng hãm hại thế nào, sau rồi trốn về sông này nương nhờ quê cũ, mà cuối cùng vẫn bị lùng sục rồi bị hại. Tứ Nương bị thầy bùa ở An Định lập đàn tróc yểm phải tán hồn, mà được thần nhân cứu vớt nên hồn chẳng tán, lại biến thành si (người chết hóa thành ma, ma chết mà không tan thì thành mị, mị chết không tan thì thành si), rồi cho đi hóa thân vào nhà cô gái họ Phan ở làng Hưng Bình trong đất Thiện Tài, còn phách si thì đặt lại ở miếu thờ chung với Ma Da ngày trước. Nhưng kể từ sau lần bị dẹp đó, miếu thờ chẳng còn thiêng liêng, người dân không có ai hương khói nên lâu dần quên đường về lối cũ, phách si hóa dần thành thạch thụ là cây dây leo bò phủ ở cửa miếu, cứ vậy theo năm tháng mà thôi. Tới ngày hôm nay đột nhiên có hương khói về, phách si rúng động, hồn Tứ Nương lập tức được gọi về miếu, nhớ lại việc xưa, bèn lần theo dấu quan quân mà tìm đến trại, quả nhiên nhìn thấy Vu Đạt là nhận ra ngay con trai. Đó là “mẫu tử liền tâm” đấy, dù thể người tinh phách âm dương sai khác, cũng chẳng bao giờ quên đi con mình.
Đạt nghe xong lặng người thương cảm. Rồi đột nhiên từ trên giường bước xuống, quỳ trước vong hồn mà lạy khóc, lết bò lại dần dang hai cánh tay. Tứ Nương lùi xa ra một bước, đáp:
– Chớ bước lại đây, mẹ con mình chẳng thể chạm nhau, con đã quên lời nguyền trên thanh Trấn Đoản Đao rồi ư?
Vu Đạt hỏi:
– Đó là vật gì, con không biết.
Tứ Nương nói:
– Khi ta quen cha con, đã là hồn ma. Con từ người và ma hợp thành mà sinh ra, người ta nói hài nhi thì có “tinh cha, huyết mẹ”, con chẳng có huyết mẹ, chỉ có “tinh cha, khí mẹ” mà thôi. Khí của mẹ lạnh giá, nên con bị hại, Tiên Tử chân nhân năm đó đã yểm bên bọc của con một thanh đao ngắn, gọi là Trấn Đoản Đao, để chống đi âm khí, nhờ đó con mới thọ mạng được.
Rồi Tứ Nương hỏi thời gian qua đã sống thế nào, Đạt kể lại việc lớn lên trên núi Bạch Hạc, Tiên Tử nói nhặt đem về, chưa từng kể về xuất thân gốc tích. Về sau khôn lớn thì Tiên Tử sai xuống núi cậy nhờ nhà họ Lục đi vào cửa quan, được Lục Nghị cưu mang. Đạt chưa từng gặp cha, chỉ nghe Lục Nghị kể lại rằng ngày đó gia đình khá giả, có qua lại với họ Lục, rồi nhà xảy ra xích mích với quan quân họ Hà, bị bọn chúng lập mưu hại để tịch thu gia sản. Mẹ bị chết đuối ở nước ngoài, cha cũng bị bức, chẳng bao lâu sau thì chết, Đạt được Tiên Tử mang đi nuôi cho khôn lớn rồi đem về nhà họ Lục. Không nói đến việc mẹ là ma, cũng không nói chết đuối ở sông Quy Hóa, tới nay mới rõ.
Tứ Nương nói:
– Đó là Tiên Tử giấu để con không thẹn trong sư môn. Lục đại nhân cũng giấu để con có cửa làm quan. (Bấy giờ ở trên núi tu đạo, nếu là con của ma thì không được tu, trong doanh trại, nếu là con của ma quỷ cũng không được làm tướng). Họ đều là các bậc có ơn với nhà ta, con nên phụng sự họ cho tốt.
Kế lại hỏi:
– Cù Tiên Sinh ta chưa gặp, không biết giờ ra sao?
Đạt nói:
– Thầy vẫn mạnh giỏi, chính là ban chiều thầy chỉ cho thắp hương cho mẹ. Chắc khi mẹ về tới thì thầy đã đi. Ngày mai xin dẫn mẹ tới gặp thầy.
Lại hỏi:
– Triệu tướng quân có còn không?
Đạt đáp:
– Mẹ nói Triệu nào?
Tứ Nương nói:
– Là Triệu Chân tướng quân dưới trướng Lục Đại Nhân. Đó đều là các vị ngày xưa có ơn với nhà mình cả. Sau vẫn không tránh khỏi ý trời cho nhà ta diệt, nhưng khi nhà có việc, họ đều tận lực.
Đạt vâng dạ, không biết tới người này, định về rồi tra cứu sau. Tứ Nương lại hỏi:
– Họ Hà, họ Tăng giờ thế nào?
Đạt đáp:
– Chúng đều xưng bá trong đất An Định, đất ấy nay đã là đất giặc, quan quân không vào được.
Tứ Nương gật đầu, nói:
– Lần này con dẫn quân đi đâu?
Đạt đáp:
– Con được trời che đất chở, được cha thầy cưu mang, nên lên làm tướng dưới cửa nhà họ Lục. Lần này phụng mệnh đi đánh giặc Hồ giặc Mán ở Sơn Động Liên Sơn.
Tứ Nương nói:
– Con đi đánh giặc xa, nhớ hết sức giữ gìn cẩn thận nhé. Chớ nói hở ra việc gặp mặt của mẹ con mình, mà làm động lòng tướng sĩ thì việc mới thành được.
Đạt nói:
– Ở đời ai là người không cha không mẹ? Ai là người từ cục đất đá mà sinh ra? Nếu khinh khi vì thân phận cha mẹ hèn mà không dám nhận gặp, thì đâu có tư cách làm người? Người ta sinh ra biết tìm hơi mẹ, biết áp vào bầu sữa ấm, con đây không có hơi mẹ từ ngày nhỏ, đến nay gặp nhau mà hơi mẹ lạnh, cũng chẳng cho con ôm ấp, đến việc nói mẹ là mẹ của con cũng không cho nói, mẹ có ác với con không?
Tứ Nương khóc sụt sùi, bước lại một bước, vươn cánh tay lên. Đạt vội nắm lấy, thấy lạnh giá mà ướt nhẹp như bọt nước, áp lên má mình, thấy lạnh tới sởn ốc nổi gà. Tứ Nương rụt lại nhưng Đạt giữ chắc, không sao rụt lại được. Tứ Nương rơi lệ, nghẹn nói:
– Thương đứa bé con của tôi. Mẹ chỉ có công sinh, không có công dưỡng, con có oán mẹ không?
Đạt nói:
– Con không oán mẹ.
Tứ Nương bảo:
– Con từ gan ruột của mẹ cắt ra, người mẹ sinh con thập tử nhất sinh mới được, có đâu mẹ ác với con? Con ơi, khi sinh con ra, mẹ muốn ôm con vào lòng, nhưng sợ con bệnh mà mẹ không dám, giờ con đã lớn, mẹ muốn nhận con lắm, nhưng mẹ là ma, mà con là tướng, như vậy danh không chính, danh không chính thì ngôn chẳng thuận, ngôn không thuận thì còn đi đánh ai hả con? Con đau lòng một, mẹ đau lòng mười, sao con bảo mẹ ác với con ư?
Đạt khóc rống lên, kéo mạnh cánh tay ôm ấp cả hình hài Tứ Nương vào lòng. Lại sợ ánh nến nóng rực khiến mẹ tan chảy, liền thổi tắt đi. Cứ thế trong đêm tối đen giá lạnh, hai mẹ con ôm nhau, chuyện trò tới gần sáng. Đến khi mặt trời lên, tướng sĩ gọi bên ngoài không thấy thưa, liền đi vào trong trướng thấy Đạt nằm một mình chơ vơ dưới sàn nhà, xung quanh là nước, sờ vào người thấy lạnh buốt đã trúng thương hàn, vội đem đi cấp cứu. Trọng Mậu nghe vội tới xem, chỉ thở dài một tiếng. Đoạn thắp hương khấn vái, thổi làn hương vào thân thể Đạt, rồi làm phép niệm chú, đem Đạt vào cho xông trong nước nóng ngũ vị hương, sau một canh giờ, liền khỏe lại như thường.
Lời bàn: Người mẹ cắt thịt mà đẻ ra con, đẻ ra mà lại không được ôm con, thật là đau đớn. Nếu con bệnh hoạn, hỏi mười người mẹ chắc là chín người chỉ ước được chết mà cho con sống. Mẫu tử thiêng liêng là vậy, nói mẹ hại con, chắc hiếm. Có nhiều kẻ ngu si khinh khi cha mẹ làm các nghề tầm thường, hoặc khinh cha mẹ nghèo khó làm xấu mặt với bạn bè, hoặc trách cha mẹ không có tiền bạc cho, mà có biết đâu cha mẹ cũng nước mắt tràn gối, cắn rứt trong lòng. Vậy vạn điều không như ý trong thiên hạ, cũng đừng nên trách cha mẹ. Vu Đạt thật là hiếu tử, bởi thế Vu Gia đều thuận hiếu làm đầu.