Kế Vu Đạt nói việc đang đi đánh giặc Thổ Chu, nhưng hiện đang tạm ở xa đất giặc mà đóng quân, mới thư thả thời gian lo cho xong việc nhà, bấy giờ phải quay trở lại đất đóng quân lo việc ngay. Phan Lâm hỏi:
– Tôi nghe nói người làm tướng, nhận mệnh của bề trên ra hành quân, dẫn binh đi ngang qua cổng nhà, cha chết cũng không vào thắp hương. Vậy sao nay vì gặp được mẹ mà bỏ lỡ cả việc quân cơ mà đi, có đúng phép binh hay không?
Đạt cười đáp:
– Anh nói đúng lắm, nhưng mỗi người có sự diệu cơ khác nhau, tùy đó mà hành xử chứ không thể xem các việc như một được. Như ở Hạ Bì, Tháo giết Lữ Bố, mà kế ở Hoa Dung, Tháo lại tha Vân Trường, sao thế? Chúng đều là hàng tướng, mà đối xử khác nhau, vì chúng khác nhau đấy.
Nói rồi xin cáo từ lên đường. Phan Lâm hẹn ở lại hai ngày để chiêu tập dũng sĩ, rồi sẽ cùng đến hội quân đánh Hồ Ly, Đạt ưng lời rồi đi ngay.
Lời Đạt nói cũng chẳng ăn nhập gì với việc Phan Lâm nói, chẳng qua cũng chỉ do còn trẻ con lụy tình, dù tài đến mấy cũng chẳng tránh khỏi chữ tình trong đó nên gác việc quân mà lo việc riêng cha mẹ đấy thôi. Phan Lâm là kẻ hào kiệt, hỏi rất là đúng việc. Đạt đuối lý mà nói lấp liếm như vậy, Lâm chắc là biết nhưng cũng nể chữ hiếu nên không bắt bẻ nữa đấy thôi.
…
Lại nói tới Ngũ Thu Linh ở trên Liên Sơn, sau ngày gặp Vu Chấn, biết con trai Chấn sắp đem quân đến thì trong lòng cũng lo sợ, lúc nào cũng căn dặn bọn Trang Páo và các thuộc tướng phải hết sức phòng giữ. Nhưng bọn người Mán chúng đánh đâu được đó, trong dạ cũng hả hê, chẳng còn biết lo sợ gì, suốt ngày chè chén trên núi, rồi lại thả quân sĩ vào thành bắt gái đẹp về chơi, lòng người trong thành cũng hơi nghiêng ngả. Thu Linh biết việc ấy rất nguy, nhưng cũng chỉ là đàn bà đứng sau Trang Páo, mấy lần ngăn quân sĩ đều bị chúng khó chịu ra mặt, cũng không dám làm căng với chúng nữa sợ mất lòng. Linh bèn ngấm ngầm tổ chức ra các đội trạm, mỗi đội hai mươi người và mười ngựa khỏe, lại sai mỗi con Hồ Ly làm chủ một đội, chia ra đi thị sát cách thành đến tận hai mươi dặm. Khi có bóng quan quân thì phải tức tốc về báo. Thu Linh có phép hồ trạm, chia đội trạm ra nửa, một nửa do thám, một nửa chuyển tin về, cứ liên tục như thế bất kể ngày đêm, ai mà bỏ ca trạm thì phạt rất nặng, các hồ lại di chuyển rất nhanh, nên tin tức thông suốt hàng ngày, từ đó mới được vững dạ.
…
Một hôm trời có mưa, Linh đang ngồi uống rượu cùng Trang Páo và bọn thủ hạ, có một viên trạm trưởng Hồ Ly là Tiểu Thử đi do thám ở xa, khi ấy chợt về cáo cấp, bước thẳng vào trong trướng. Thuộc tướng Mường là Sùng Lan đã uống ngà say, đứng dậy trỏ thám tử quát:
– Nơi đây là trướng tướng quân, ai cho bọn Hồ tụi bay chạy xộc vào đây thế?
Thu Linh nghe thế đã giận đỏ cả mặt, Trang Páo biết ý cười can ngăn, nói:
– Tướng quân chớ nói thế, là phạm đấy.
Sùng Lan mới liếc mắt nhìn lại Thu Linh, cười bảo:
– Đó là rượu nói, không có ý gì, phu nhân chớ giận nhé.
Nói rồi phá lên cười, bọn tướng lĩnh cũng che miệng cười theo khúc khích. Thu Linh giận lắm, răng nghiến ken két, hai mắt long lên sòng sọc nhưng nín hơi làm thinh, trong giây lát sắc mặt điều hòa như không có gì, quay hỏi Tiểu Thử:
– Có chuyện gì?
Tiểu Thử cả người vẫn còn ướt sũng bởi dầm mưa đi xuyên đêm, nói:
– Nghe thám báo về rằng, có doanh trại quân đội đóng cách ba mươi dặm, cho người do thám đi vào sâu hơn mười dặm, rồi ở yên đó không động gì. Tôi đi xa vào trong đất đóng quân ấy trực tiếp thị sát, thấy rất nhiều trại lính, mỗi trại năm mươi quân. Quân sĩ ngủ trong rừng, chắc kể tới vài ngàn, mang hiệu quân Gia Lâm.
Linh sợ hãi làm rơi cả ly rượu trên tay xuống đất, đứng bật dậy khỏi chỗ ngồi, hỏi:
– Chủ tướng chúng họ Vu chăng?
Tiểu Thử đáp:
– Tôi sai Hồ ly giả làm kỹ nữ đi vào trong trại mua rượu, chúng nói Đại tướng họ Vu tên Đạt, nhưng trong mấy ngày người đi kiểm tra các trại là viên tướng họ Thương, tên Hoàn, không thấy Vu Đạt đâu cả.
Lại hỏi:
– Vì sao chúng đóng quân ở xa thế?
Tiểu Thử đáp:
– Bọn lính không biết được, chỉ nói hạ trại chờ lệnh mới tiến.
Thu Linh nghe thế, nét mặt sa sầm có nét chẳng vui, đứng dậy khỏi bàn rượu. Trang Páo níu áo Thu Linh lại nói:
– Tiệc đang vui mà nàng đi đâu? Lục Nghị đã sai người đến Liên Sơn này biết bao nhiêu lần rồi? Lần nào ta cũng đánh bại chúng hết, nên lần này chúng sợ mà chưa dám tiến phát thôi. Nàng không nghe con hồ này nói hay sao? Đi đánh nhau mà đóng xa như thế không tiến, chủ tướng thì lẩn trốn để phó tướng trông trại, thật là hèn hạ.
Đoạn trỏ xuống Tiểu Thử, nói:
– Mi đi vào trại chúng nó, nói phao lên rằng. Trang Páo đang kéo quân ra đánh, có Lục Nghị đích thân đến đây, chúng tao cũng giết chết. Tự khắc giặc tan vỡ.
Nói rồi cười lên ha hả, bọn chư tướng đều cười theo, tiếp tục uống rượu không hề lo sợ chút gì.
Thu Linh giằng áo ra khỏi tay Páo, bước xuống rất vội, nói với Tiểu Thử:
– Quay trở lại trạm canh, sai hai đội đi sát vào trại của chúng nó, chờ khi có hiệu lệnh của ta.
Tiểu Thử nhận lệnh, bước ra khỏi trướng ba bước, lập tức hóa thành con chồn, hòa vào trong mưa đi ngay ra tiền tuyến.
Thu Linh rời khỏi trướng đi về phòng riêng.
Trong phòng nghỉ của linh không có lụa là gấm vóc gì, chỉ có đơn sơ một chiếc bàn gộc và một ổ rơm nằm quấn, chẳng có chăn ấm nệm êm hay các thức đồ cao sang quyền quý nào, khác xa phòng các tướng, còn không bằng phòng của bọn thị nữ hầu hạ, thậm chí còn chẳng bằng nơi nghỉ trong động của quân lính. Linh mỗi ngày đều nằm trên ổ rơm, uống nước lá, ăn lá cây rừng, để nhắc cho không khi nào quên mối thù diệt tộc.
Bấy giờ bước lại cuối phòng nơi có một chiếc bàn thờ gỗ mộc, khắc chìa ra khỏi một thân cành cây lớn đâm xuyên lên mái nhà, trên bàn thờ thờ một chiếc gương lớn và một hình nhân bằng vải màu đỏ thẫm, thắp lên ba nén hương lớn trước gương, khấn lạy rằng:
– Thưa Trịnh tướng quân, giặc đã tới.
Sau cỡ ba hồi, trên hương án từ từ có cảm ứng, cây hương đã tắt đi phân nửa, thì từ trong gương dần dần trồi ra một bóng đen, bò lan trên mặt bàn thờ như vũng laayfkhoong nhìn rõ nhân dạng chỉ thấy lộ ra hai con mắt sâu hoắm màu đỏ lửa nổi bận lên trên nền khói bóng màu đen. Giọng nói từ từ vang lên trong bóng:
– Có phải con trai viên phán quan không?
Thu Linh cung kính chắp tay đáp:
– Phải, nhưng hiện hắn không ở trong doanh, chẳng biết thế nào.
Chiếc bóng nói:
– Ngươi hãy đích thân đi vào doanh của nó, nên xem xét kẻ nào xao lãng mà dùng mĩ nhân kế dò thử thực hư của chúng. Mặt khác sai tướng chuẩn bị quân sĩ, hãy tiến đánh chúng trước.
Thu Linh nói:
– Liên Sơn là nơi dễ thủ khó công, thành trì ở đây là nơi khó chống, nếu rời xa thành trì mà đi về hướng giặc, chẳng khác gì đi sâu vào nơi trống trải, sợ quân bị nguy.
– Giặc chưa tiến là để thăm dò chứ không phải sợ ngươi, nếu nó sợ thì nó phòng, nếu nó thăm dò thì nó xao lãng. Giặc cũng nghĩ như ngươi, nên chắc không ngờ ngươi đánh trước. Lúc này mà đánh, như sấm sét đánh tới chẳng kịp bưng tai, sẽ khiến chúng phải tan vỡ.
Linh vẫn còn ngần ngừ hơi sợ, lại nói:
– Bọn thổ dân rất là ngu ngốc, lại hay phải thói hợm mình, xem thường đàn bà, xem thường hồ tộc, xem thường kẻ thù, trong mắt bọn chúng hết thảy đều chẳng ai ra gì, chỉ có chúng là nhất. Tôi sợ hỏng việc mất thôi.
Chiếc bóng cười gằn một tiếng, nói:
– Trang Páo tự cao như thế, bảo hắn đi đánh trận này tất hắn dốc sức đánh phủ đầu giặc. Cái sự kiêu hãnh là dùng cho lúc này, sẽ thắng mà trở về. Thắng về rồi lại càng kiêu, khi kiêu lên quá chắc là không toàn mạng được. Ngươi chuẩn bị đem người của Hồ tộc vào tiếp quản thành đi, khi Páo đánh xong, ngươi hãy giết hết bọn tù trưởng mà nắm quyền, ta sẽ có âm trợ.
Thu Linh nói:
– Thành trì có thể đoạt được, bọn tướng Mán đều có thể giết được, riêng Trang Páo là người có ơn sâu với thiếp, có thể toàn mạng được không?
Chiếc bóng từ từ trườn lại gần Thu Linh, đoạn vươn lên đứng thẳng như người, lộ ra hình hài là một viên tướng quân trẻ tuổi, hai mắt sáng như sao, mặc áo bào màu trắng. Vị ấy bước lại sát bên, Thu Linh cảm nhận được hơi thở lạnh buốt phả vào cổ gáy, vị ấy vén tóc mai Thu Linh lên nói:
– Ngươi yêu hắn rồi à?
Thu Linh cúi đầu đáp:
– Không dám như thế.
Viên tướng quân buông tóc Thu Linh ra, nói:
– Phải, người cưu mang mình lúc khốn khó, mà sau được như ý thì mình giết hại là bất nghĩa. Có thể để hắn sống.
Thu Linh vâng dạ, cúi đầu lĩnh mệnh, lòng lúc này đã vững. Chiếc bóng thoáng chốc biến mất, tan nhập vào chiếc gương trên án thờ, không còn một vết tích gì.