Hắc Manh đã say giấc, Thu Linh Từ từ mở mắt, gỡ nhẹ cánh tay Manh ra rồi trườn khỏi giường. Kế đó nhẹ nhàng bước lại đống áo quần vứt tứ tung đã bị xé rách, rồi lần ở túi trong của áo ra một mảnh gương rất nhỏ. Linh lấy mảnh gương ấy vạch vào bàn tay, có dòng máu đỏ tươi chảy ra thấm lên mặt gương, kế rồi đặt mảnh gương trước mặt, quỳ xuống niệm chú tiếp dẫn. Trong gương thoáng chốc từ từ phủ mờ bóng đục, rồi từ trong gương trào ra một bóng đen thẫm màu, đó là bóng người. Bóng người ấy khẽ trườn ra ngoài, phút chốc vụt dậy khỏi mặt đất, tụ dần thành hình hài viên tướng quân áo trắng. Thu Linh khấu đầu nói:
– Bái kiến Trịnh Phong tướng quân.
Viên tướng quân khẽ gật đầu, liếc con mắt nhìn về phía Hắc Manh đang trần chuồng say giấc.
…
Lại nói nước Đại Lý là một nước nằm ở phía Tây Nam nước Tống, Tây Bắc nước Việt, tiền thân là nước Nam Chiếu, người mở nghiệp là Thần Thánh Văn Vũ đế Thái tổ Đoàn Tư Bình, dựng nước vào năm Đinh Dậu, cùng thời với Ngô Tiên Vương Ngô Quyền nước ta, đến nay dựng nước đã trải ba trăm năm. Trong nước có nhiều giống các tộc người Di, Bạch Man, Ô Man (anh em Đại Di, Tiểu Di đều là người Di gốc từ nước Đại Lý đi sang nước Việt.).
Thái Tổ nước ấy là Đoàn Tư Bình được một vị đại sư tinh thông võ nghệ và trận pháp, nhân gian đồn là đồng tử của Bồ tát Phổ Hiền, hiệu là Kim Thiền Tử, truyền lại cho bộ kỳ thư “Nam Chiếu binh điển”. Bộ kỳ thư này có 8 quyển, gồm các phần binh luận, trận pháp, địa thế, kỹ pháp, võ thuật. Thái Tổ dùng sách này truyền đời làm bí kíp, lưu trong mật thất của Vô Vi Tự, chỉ người trong họ Đoàn mới được xem, nhờ đó mà lập được công nghiệp hiển hách đến mấy trăm năm như vậy. Kim Thiền Tử lại còn dạy cho Đoàn Thái Tổ phép tu Mật Tông, bởi nhờ sự gia hộ của Kim Thiền Tử mà được cơ nghiệp, nên Thái Tổ đều hết sức tụng trì Phật giáo. Sau Thiền Tử truyền lại Mật Tông rồi tịch, Thái Tổ tịch truyền đến con cháu học theo, dần dà biến thành quốc giáo, lưu truyền lâu dài về sau, nước này được xem như nước Hoằng truyền. Đến thời Đạo Long, họ Đoàn đã truyền được 21 đời, lên ngôi là Đoàn Tường Hưng, tức Hiếu Nghĩa Đế, cũng tu Mật giáo rồi xuất gia, mà vẫn coi các việc trong cung điện. Thời bấy giờ ở nước Việt có bọn giặc Thiên Gia Môn làm loạn trong nước, bị triều đình nước Việt tróc nã rồi phải rời bỏ sang Đại Lý lập thân, xin nhờ cưu mang. Thiên Gia Môn trải bao khó nhọc, gây dựng ở nơi biên thùy, giúp triều đình đánh giặc cướp, cuối cùng cũng được Đoàn Tường Hưng cưu mang, ban cho đất cát lập nghiệp. Gia chủ của Thiên Gia Môn là Thiên Minh, đây là tay lão luyện về nghề võ cho tới yêu thuật, lại cực kì tinh thông Phật giáo Mật Tông, Đoàn Tường Hưng rất quý mến, sau phong Hầu cho, gọi là Võ Viễn Hầu, thường ngày gọi tới cùng đàm đạo về Mật Tông. Thiên Minh nói về các việc binh pháp, rất là khế hợp, nói về Mật Tông, cũng rất là tương đồng với nội dung bộ “Nam Chiếu Binh Điển” được Kim Thiền Tử truyền cho Đoàn Thái Tổ ngày trước. Mà sách này chỉ lưu truyền trong nội bộ họ Đoàn, lời sấm trong sách lại nói ai giữ sách này thì làm vua trong nước, bởi vậy trong nước có sự nghi kị, ai cũng nghĩ Thiên Minh là điềm trời gửi đến để soán ngôi họ Đoàn, có người nghi Thiên Minh là gián điệp của nước Việt. Bên cạnh vua có nhiều kẻ xu nịnh ngày đêm buông lời gièm pha, sau vua cũng nghi, từ đó hay sai Thiên Minh dẫn binh đi chống giặc Tống ở biên giới Đông Bắc, nhiều khi cấp cho quân ít mà sai đi đánh giặc nhiều, đẩy vào nơi hiểm trở, muốn mượn người Tống giết Minh cho khỏi mang tiếng, nhưng Thiên Minh đều đánh dẹp được, giữ yên biên cương, người Tống nghe tới Võ Viễn Hầu đều rất sợ hãi. Lúc bấy giờ vua bèn sai Thiên Minh trấn về mặt tây, Minh đi rồi thì lại giao cho quan Đại Tư Mã là Trịnh Hân xếp quân phòng chặn ngầm Thiên Minh từ bên trong, không cho về triều nữa. Trong nước lúc bấy giờ có vị quan huyện ở đất Tây là nơi Minh đóng quân họ Thanh, là người gốc Việt làm quan ở Đại Lý, xét đến tông tộc cùng gốc nên Minh kết giao, về sau gặp thì yêu con gái viên quan họ Thanh ấy tên là Kinh Tâm. Nhưng Thanh lão gia đã hứa gả kinh Tâm cho con trai Trịnh Hân là Trịnh Phong từ trước, hai người bèn cùng bội lời ước hôn. Trịnh Hân giận vì điều ấy, liền muốn giết Thiên Minh, nhưng không hại được, bị Thiên Minh giết. Con trai Hân là Trịnh Phong từ đó có thù với Thiên Minh, hai bên thường đánh nhau mãi. Về sau vua gọi Thiên Minh về triều, lấy cớ giết đại thần để trách tội, cuối cùng ép Thiên Minh phải chết, Thiên gia môn cũng bị triều đình sai Trịnh Phong tàn diệt để tránh hậu họa. Thiên Gia Môn diệt rồi nhưng có một số kẻ tướng lĩnh ở xa thoát được bèn đem Kinh Tâm lẩn trốn đi sang nước Việt, Trịnh Phong hận mối thù giết cha, vẫn truy tìm giết cho bằng hết. Về sau đánh nhau, Phong bị Kinh Tâm dùng phép yểm phách vào chiếc Mị Gương, giam hãm trọn đời ở núi Vân Lâu. Nhưng Trịnh Phong cũng là kẻ có trí thuật sắc bén, bèn thoát được núi Vân Lâu, có điều phách bị Kinh Tâm hãm vào kiếm Tuyết Thanh, ẩn chú lên Thiên Nhân Sa Thủ Thiên, bởi vậy không cách gì hóa cho bình thường được, lúc nào cũng phải lẩn bóng trong gương, ra ngoài chẳng thế quá một canh giờ. Trịnh Phong truy cùng giết tận Kinh Tâm, cũng để tự giải thoát cho mình vậy. Lúc bấy giờ Kinh Tâm lẩn trốn triều đình phải đi sang nước Việt, Trịnh Phong cũng đi theo sang đây truy vết, đến khi ra ngoại quốc thì gặp Ngũ Thu Linh, từ đó luôn ẩn sau Thu Linh mà hành động, Thu Linh biết trí thuật của Phong, rất kinh sợ người này. Ngày sau đắc thắng được ở Liên Sơn, nhờ có Trịnh Phong cũng nhiều là vì như vậy.
…
Bấy giờ Trịnh Phong bước ra khỏi gương, nói:
– Trong một canh giờ, nhất thiết lấy xong hết trại giặc, thì đánh một lần đến ba năm sau chúng còn chưa dám cất quân đi lại. Không kể Vu Đạt, cả họ Lục cũng như vậy.
Nói đoạn vươn bàn tay, chiếc áo trắng bạch từ từ rút ra, khoác lên mình cho Thu Linh. Kế đó Phong bước tới bên Hắc Manh đang nằm phủ phục, hơi rượu nồng nặc, bảo rằng:
– Mất mạng cũng do rượu với gái mà thôi.
Lại quay qua Thu Linh nói:
– Có lại muốn xin tha cho kẻ này chăng?
Linh bảo:
– Thưa, chẳng can gì.
Trịnh Phong cười, đoạn rút kiếm trên túi giáp của Manh, đâm một nhát chí mạng vào cổ, máu phụt lên thành ngòi, Hắc Manh trợn tròn con mắt, chỉ kịp nhìn thấy loang loáng, tức thì Phong đặt một bàn tay lên hai mắt, cả hai con ngươi tan chảy ra như bị nấu, giật lên một cái rồi chết ngay, hết sức tàn khốc. Trịnh Phong bước đến túi gươm, lấy đồ của Hắc Manh mặc lên người, đoạn tìm binh phù, khi tìm xong, lập tức nhanh chân bước ra bên ngoài, Thu Linh liền đi theo.