Mọi người sợ hãi khi thấy cả hai đều nhảy xuống nước, ông Tư cũng nhảy vội theo sau. Dưới lòng sông bỗng nổi sóng khác thường, nước cũng đột nhiên lạnh hơn bình thường. Ông Tư bị dòng nước lạnh đột ngột làm cho tê cứng, lúc không thể ngoi được lên bờ thì chú Ba đã kéo được ông lên. Ông Tư mặt mày tái mét, miệng run run nhưng không thể nói thành lời. Chú Ba đẩy ông Tư vào bờ rồi lại nhào xuống dòng nước đục ngàu tìm kiếm Mây.
Cả Mây là lão thầy bói dường như đều biến mất dưới nước. Bà Xinh bấy giờ hô hoán dân làng giúp đỡ. Bao nhiêu thanh niên trai tráng trong làng đều nhảy xuống mò tìm người nhưng thời gian trôi đi chẳng ai thấy Mây đâu cả.
Bà Xinh ở trên bờ khóc cạn cả nước mắt cũng lao xuống nước đòi tìm con gái nhưng đều bị mọi người ngăn lại. Lúc đó ai cũng đinh ninh rằng Mây đã chết đuối và bị sóng kéo đi nơi khác. Họ bắt đầu mở rộng vùng tìm kiếm nhưng dù tìm thế nào cũng không ai thấy Mây đâu, ngay cả ông thầy bói kia cũng không thấy.
Trời tối, người dân vẫn đốt đuốc tìm kiếm. Bà Xinh ngồi khóc trên bờ sông, đôi mắt bà đã mờ chẳng rõ đường. Bà cào cấu đất đá rồi gọi tên Mây mà chẳng được.
Thằng Hải lững thững ôm theo quả dưa đi về phía mẹ mếu máo: mẹ…mẹ hãy ném quả dưa xuống sông đi. Làm vậy còn thấy xác con bé.
Bà Xinh gào lên: không…con bé còn sống, nhất định là con bé còn sống.
Nói rồi bà điên cuồng chạy dọc bờ sông gọi tên con gái.
Ông Tư thì bình tĩnh hơn rất nhiều, ông gọi vợ lại khuyên ngăn: bà tỉnh táo lại đi, giờ mọi người cũng đang vất vả tìm kiếm con bé. Chuyện cũng đã xảy ra rồi, mình phải kiên cường lên còn lo chuyện cho con bé nữa.
Bà Xinh bắt đầu ngồi trách trời trách đất, trách bản thân mình đã làm hại con gái. Bà tự chửi rủa bản thân mình giá như không đi mời thầy bói bắt ma quỷ thì Mây dù chẳng tỉnh táo vẫn còn cái mạng chứ không phải mất xác dưới lòng sông thế này.
Chợt bà nhớ đến sư thầy trên chùa khi xưa bèn hỏi chồng: ông…cái…cái mảnh giấy kia đâu?
– Mảnh giấy gì?
– sư thầy cho…cái mảnh giấy sư thầy cho con bé Mây khi nhỏ. Ông để nó đâu rồi?
Ông Tư bấy giờ mới nhớ ra mẩy giấy ông gói cẩn thận ép sau khung ảnh liền nói: nó ở nhà, sau khung ảnh. Nhưng tìm nó làm gì chứ?
– Sư thầy nói nếu cấp bách nó cứu chúng ta một mạng. Giờ là lúc cần, ông mau lấy ra xem trong đó viết gì?
Ông Tư tất tưởi chạy về nhà tìm lại mảng giấy. Lúc mở ra ông bàng hoàng thấy trên đó có dòng chữ đã hoen ố nhưng những chữ kia đập vào mắt khiến ông Tư không khỏi rùng mình.
Bà Xinh nhào vào hỏi: trên đó viết gì? Ông đọc to cho tôi nghe xem nào?
Ông Tư đáp: cây xà cừ. Mau tới cây xà cừ.
– xà xừ nào?
– Cây xà cừ ở bờ sông, nhanh lên, bà tìm bộ quần áo con bé Mây cho tôi nữa. Tôi đi chặt cây chuối.
Bà Xinh không hiểu ông Tư muốn làm gì nhưng cũng vội vào buồng lấy bộ quần áo của Mây rồi chạy ra cây xà cừ. Ông Tư bấy giờ đã chặt được một cây chuối rồi dựng lên làm hình nhân. Ông đích thân mặc cho hình nhân bộ quần áo của Mây rồi treo hình nhân lên cây xà cừ.
Chứng kiến cảnh ấy ai nấy đều ngạc nhiên. Ông Tư chỉ đáp vỏn vẹn: là sư thầy cho một tờ giấy dặn khi con bé Mây gặp nguy hiểm liên quan sông nước hãy làm như vậy thì mới cứu được con bé.
Người dân ngao ngán nhìn nhau, dĩ nhiên có người thì tin chuyện ấy, có người lại không tin. Chú Ba cũng biết chuyện mẩu giấy sư thầy cho năm xưa nên chú cũng xắn tay áo lên phụ gia đình ông Tư. Người dân thấy cả chú Ba cũng không phản đối gì lập tức làm theo, một phần để động viên gia đình, một phần cũng mong mỏi Mây thực sự còn sống.
Đêm buông xuống, người dân kéo nhau về gần hết, dưới gốc cây chỉ còn gia đình ông Tư vẫn ngóng xuống dòng sông mong mỏi một tia hi vọng mỏng manh.
Qua hết một đêm dài, mọi hi vọng dường như tan biến hết. Bấy giờ ông Tư cũng chấp nhận con gái mình thực sự đã không thể sống sót nhưng chết phải thấy xác nên ông bắt đầu nhờ mọi người tìm kiếm thi thể con gái. Đám người trục vớt thi thể đuối nước cũng hết sức tìm kiếm nhưng lạ thay họ đều không tìm được thi thể của Mây lẫn ông thầy bói kia đâu cả.
Chiều về, trên sông huyên náo, có chiếc bè không người lái trôi dạt vào bờ. Người dân phát hiện ra có người nằm trên bè nên đã bảo nhau xuống kiểm tra. Lúc lật người lại tất thảy đều kinh ngạc bởi trên chiếc bè ấy lại là Mây. Con bé còn sống, hơi thở còn yếu ớt.
Cái tin con gái còn sống nhanh chóng truyền đến tai ông Tư. Hai ông bà lật đật chạy ra bờ sông để kiểm tra thực hư. Quả nhiên con bé Mây còn sống. Da dẻ nó nhăn nheo trắng bệch cả ra, bàn tay thì cầm khư khư một món đồ. Lúc mọi người cố cạy tay con bé May thì phát hiện ra một hòn đá, trên hòn đá ấy có khắc hình một cô gái.
Một người liền hô lên: cái này chẳng phải là đá cô tiên ở sông này à?
Ông Tư bấy giờ chỉ quan tâm tới Mây, làm gì có thời gian nghĩ tới những chuyện khác nên trực tiếp vác con gái lên thúc giục mọi người chèo thuyền sang sông để ông cho con gái đi bệnh viện.
Ba ngày nằm viện nhưng Mây vẫn không tỉnh lại. Chú Ba cũng kiểm tra cho Mây, chú cũng không biết lý do tạo sao Mây mãi không chịu tỉnh. Chú hỏi thăm bác sỹ về tình hình của Mây nhưng chỉ nhận về cái lắc đầu của bác sỹ. Họ còn tiên lượng xấu rằng Mây sẽ không thể tỉnh lại.
Trên đường về, chú Ba đi vòng ra gốc cây xà cừ nơi mà họ đã treo hình nhân tối hôm trước thì phát hiện hình nhân đó đã biến mất. Tại nơi treo hình nhân chỉ thấy ít máu đã chuyển màu đen còn vương lại.
Chú Ba hỏi mấy người dân xung quanh nhưng họ đều không để ý tới cái hình nhân mà gia đình ông Tư đã treo lên. Chú Ba lập tức quay lại bệnh viện thì phát hiện Mây đã tỉnh lại tự bao giờ, chỉ có điều ánh mắt của cô bé rất lạ. Mây nhìn về chú Ba rồi cất giọng hỏi: có đem đồ ăn tới cho ta không? Ta đói!
Chú Ba nhíu mày đáp: để chú đi mua cháo cho Mây. Con mới tỉnh dậy mau nằm xuống nghỉ ngơi đi.
Mây từ từ nằm xuống nhưng đôi mắt lại mở trừng trừng không hề nhắm lại. Ông bà Tư bấy giờ vẫn đang ở phòng bác sỹ để hỏi han tình hình của Mây. Bác sỹ liền khuyên cả hai cố gắng về chờ đợi bởi những trường hợp này có thể tỉnh bất cứ lúc nào, cũng có thể không khi nào tỉnh lại.
Hai ông bà lững thững về phòng thấy chú Ba ở trong đi ra, chú Ba lên tiếng trách móc: anh chị đi đâu mà bỏ mặc con bé một mình thế? Nó kêu đói, em đi mua cho nó bát cháo.
Bà Xinh nghe vậy tự dưng đôi tai ù đi, bà chạy vào phòng phát hiện ra Mây quả nhiên đang mở mắt nhìn về mình. Tuy nhiên lúc này con bé không nói không rằng, mắt cũng không chớp lấy một cái.
Khi chú Ba đem cháo về, bà Xinh đút cho Mây ăn. Cô gái ăn một mạch hết tô cháo xong lại mở miệng nói thêm: ăn nữa, tôi đói.
Ông Tư mừng lắm vội đi mua thêm tô nữa. Cứ như vậy Mây đã ăn 3 tô cháo liền rồi nhắm mắt nghỉ ngơi.
Ông Tư tuy thấy con gái biểu hiện lạ nhưng do trước đó cô điên điên dại dại nên bản thân ông không để ý sự thay đổi của con gái mình khi tận tai ông nghe Mây nói với chú Ba: nhà ngươi mau tìm đá tiên cô về đây, nếu không có nó thì các người sẽ chết hết!
Ông Tư đột nhiên nhớ đến cục đá mà Mây đã cầm khi còn ở trên bè. Ông cũng nhớ lúc đó có người gọi nó là đá cô tiên. Ông quay ra hỏi vợ: này bà, có phải con bé Mây nhà mình không? Sao tôi thấy nó lạ quá?
Bà Xinh đáp: con gái ông mà ông còn hỏi thế thế à? Không nó thì còn ai vào đây nữa?
Mây đứng ngay cửa phòng nói cắt ngang câu chuyện của hai vợ chồng: hai người cũng đi tìm đá cô tiên về đi, nếu như chậm trễ sẽ có người chết đấy.
Hai vợ chồng ông Tư ngơ ngác nhìn nhau, Mây lại khẳng định: nhanh lên, chậm thì có người chết bây giờ.
Thấy hai người vẫn ngơ ngác nhìn nhau không chịu đi tìm, Mây lập tức lao khỏi bệnh viện. Không biết bằng sức mạnh gì mà cô ấy lại chạy nhanh tới vậy, sức của ông Tư cũng không thể nào đuổi kịp con gái. Rất nhanh mấy người đã chạy tới bến đò, Mây không nghĩ ngợi nhảy xuống nước bơi sang sông ngay lập tức. Ông Tư sợ con gái lại đuối nước nên lập tức nhảy theo sau nhưng chính ông Tư lại là người gặp nguy hiểm. Lúc đó nước sông bỗng dưng lạnh tới ghê người khiến toàn bộ cơ thể ông Tư gần như bị đóng băng. Cảm giác này giống hệt với lúc Mây lao xuống nước mấy hôm trước vậy.