Vu gia liệt truyện

Chương 13



Chấn ăn nằm trong nhà bà Lê, hàng ngày bà ta nuôi ăn cho, được vài hôm thì hết gạo, cả rau củ đào về cũng không đủ ăn, bà Lê phải đi xin ăn, mà phải đi ra xa khỏi nhà xin tránh cho người xung quanh nghi ngờ. Bà thường đi từ sáng sớm, tới tối mịt thì đem chút ít gạo rau về, có khi chỉ có củ dại. Bà ấy không có gia đình, con cái, Chấn thương hại lắm, nhưng không làm thế nào được. Mỗi ngày Chấn đều đau nhức không thể chịu đựng nổi, các vết thương do bị gậy đánh cứ sưng tấy, không thể nằm như người bình thường mà phải nằm nghiêng, lúc đau quá không thể chịu đựng, thường tới rất mệt mới có thể ngủ, thuốc thang không có, chừng bệnh mỗi lúc nặng thêm.

Có đêm Chấn nằm trong gian nhà nhỏ chật hẹp không có ánh sáng, lẻ loi cô quạnh, có nhà chẳng thể về, có về cũng chẳng còn ai. Chấn nghĩ tủi nhục đủ đường chỉ muốn chết mà thôi, nhưng rốt nghĩ tới mối cừu thù, lại nghĩ mình mà chết bây giờ ở đây, chẳng có ai có thể rửa nỗi oan khuất, lòng này chẳng biết bày tỏ vào đâu, lại thôi.

Nhiều lúc nằm mê man, Chấn cứ hay vô cùng nghĩ tới những việc lạ kì trong giấc chiêm bao cận tử. Tứ Nương đã tận khí ở sông Quy Hóa, phách đã tan nát thành vũng nước trôi, do đâu mà còn ở đó dẫn lối?

Đó là bởi ôm niềm uất hận lớn lao, ma hay người cũng đều như thế!

Người sống bị hận, chết đi hồn không thể tán

Người chết bị hận, chết thêm lần nữa, phách chẳng thể tan.

Vì mảnh phách đơn ấy vô lực, vô khí, chẳng thể đắc dụng khi trả thù, nên phải mượn tới oai lực của loài người, lại khéo dò dẫm lạy lục chỗ này chỗ khác ở cõi thần tiên, khiến cho Chấn được sinh trở lại. Đó là dụng ý của Tứ Nương. Một hồn ma còn có ý chí như trả thù mà cố công cực khổ tới vậy, Chấn lẽ nào lại không?

Nghĩ rồi nuốt mối căm hờn, sự nhớ thương chuyển thành tức khí, hết sức bặm môi nghiến lợi, gồng gân xé cốt, lê lết tập đứng, tập đi trở lại, mặc cho thân thể kêu gào, tinh thần kiệt quệ cũng không nản chí. Từ bình sinh nhỏ giờ chưa khi nào làm gì mà cố gắng nhiều tới như vậy.

Đêm nọ Chấn đang nằm trong buồng chờ bà già về, người đau tới tê dại, các vết thịt thối ra không được điều trị, bấy giờ mưng mủ lên rất khố sở, Chấn không thể đi lại, thấy đã sắp chết đến nơi, gượng thắp một nén hương, nói:

– Mạng này sắp tận rồi, thù của nhà chẳng thể trả được nữa. Nguyện chết làm ma rồi thì đừng siêu thoát, xin đấng phán quan cho ở lại trần gian tìm cách vật chết thằng tham quan mới thôi.

Thắp rồi sa nước mắt khóc, nén hương chưa cháy hết, đã thấy có gió lạnh thổi từ bên ngoài vào, rồi có một người con gái bước thẳng từ sân vào trong buồng nhà.

Chấn thấy người đó là nữ nhân, thân hình mảnh mai, tóc búi cao, làn da trắng tuyết, đôi mắt sắc xảo, nhưng không có vẻ là nữ nhi khuê các. Người đó mặc đồ bó, chân bó hài, hông giắt kiếm, cứ thế xộc thẳng vào phòng, tới trước mặt Chấn thì đứng lại. Chấn sợ hãi luống cuống, còn chưa biết trốn chạy vào đâu, người đó đã bước tới nói:

– Ông có sự uất hận gì lớn lao thế? Mà làm rung động tới cả quỷ thần.

Chấn nằm bẹp xuống giường, thấy người đó không phải người của quan quân, bèn nghĩ thế nào rồi cũng chết, liều kể lại việc mình. Người đó nghe chuyện xong, nói:

– Thật đáng thương, nhưng người đáng thương trong thiên hạ rất nhiều, chẳng thể quản hết được.

Nói rồi định bỏ đi, quay đi được vài bước chân, nghĩ thế nào lại quay lại đưa cho một túi thuốc, nói:

– Hãy đắp lên vết thương, chắc là giúp đi lại được. Còn đụng đến cửa quan, đó không phải là việc sức một vài người có thêm sự hận thù mà mưu tính được.

Chấn hỏi tới tên họ, người đó bèn kể ra gia thế.



Lại nói vào thời nhà Đường, đặt Giao Châu làm Tĩnh Hải Quân, dùng Cao Biền làm Tiết độ sứ. Biền là kẻ huyền nhân tinh thông huyền thuật y lý, lại giỏi tài sai phái âm binh, mắt nhìn được đất thiêng mạch ngầm, tai nghe được tiếng quỷ thần trùng điệp. Biền có thuật dùng giấy gấp thành hình diều, diều bèn bay lên được như chim, lại dùng giấy gấp thành hình người, đốt hương lên khấn thì người có thể đánh nhau như người sống.

Biền nhậm chức, nói với tả hữu:

– Người Giao Châu ưa làm loạn, suốt ngàn năm nay chẳng khi nào mà được yên, khiến quan quân nhiều phen đánh dẹp mãi không định được, cứ định được, sau lại nổi lên phá tiếp, đó là bởi đất đai nơi này có khí mạch, khiến chúng sinh ra máu nóng, cần phải đoạn trừ khí ấy đi thì mới dứt được mầm phản nghịch.

Thế rồi Biền gấp diều giấy, cưỡi lên lưng diều bay lượn ngắm thủy thổ khắp Giao Châu, thấy có nhiều nơi vượng khí phát ra, Biền lại gấp giấy thành tướng lĩnh, đem thả xuống đất ấy để trấn yểm. Ngày nọ Biền bay qua một ngọn núi, thấy núi ấy địa lợi trùng trùng, trên núi có kỳ hoa dị thảo, đỉnh núi lại có mạch nước ngầm chảy phun lên như cái vòi, phía bắc núi có sông uốn như thế rồng nằm, phía đông nam lại có non cao che chở dài có đến trăm dặm, bèn kêu lên:

– Nơi kì dị chính là đây, thủy mạch thật là thịnh vượng.

Nói rồi gấp âm binh bằng giấy, từ trên diều ném xuống, nhưng hễ âm binh dạt xuống, lại có gió thổi thốc từ hướng tây lại, khiến bao nhiêu người giấy bị trôi dạt đi cả không đậu được xuống núi một người nào. Biền xem thế đất, rồi nói:

– Ở đây có thiên phong, thổi từ tây kim, là gió trời vậy.

(Gió nổi từ hướng tây, trong âm dương gia, hướng tây ứng quẻ càn, là tượng trời, gia trưởng, người già, xương đầu, đầu lâu. Gió từ hướng ấy gọi là gió trời- thiên phong)

Đoạn đi lên núi, nhắm vào mặt tây núi lập đàn thắp hương, cho bắt giết một người, lột da đầu lấy đầu lâu chôn vào hướng đó, lại chôn thêm các loại sừng trâu sừng bò, làm phép trấn gió, từ đó gió trên núi bớt.

Đi theo Biền từ Trung Quốc sang có một viên thượng tướng lo việc hướng đạo họ Ngũ, tên Phạn, xuất thân từ núi rừng, là tộc hồ ly. Biền bảo viên tướng họ Ngũ:

– Vùng đất này có khí mạch như thế, nên cho nhuận âm trấn lấy. Ông nên ở lại đây, con cháu đời sau sẽ phát được mấy trăm năm. Hãy ở đây canh chừng, làm phên dậu cho đất bắc. Trong các minh khí âm dương, giữa các vị “Lĩnh, Minh, Kỳ, Tinh, Hi, Phạm, Cương, Tung, Huân”, giao cho ông vị “Lĩnh”.

Đoạn viết bùa đem cho.

Viên thượng tướng họ Ngũ bèn ở lại núi ấy trấn giữ mặt nam, nhân đó đặt tên là núi Lĩnh, ấy là Lĩnh Sơn về sau. Ngũ Phạn ở Lĩnh Sơn trấn giữ, sinh con đẻ cái hình thành nên tông tộc, hồ ly có khi lên tới mấy trăm con, dân quanh vùng đều biết đó là núi hồ ly, không dám phạm tới, quan quân cũng đều kinh sợ. Khi Biền hết nhiệm kì về nước thì Cao Tầm được cử sang thay, Cao Tầm là cháu Cao Biền, cũng giỏi thuật phù thủy, là người có tầm nhìn chính trị, dân được yên ổn; Khi Cao Tầm về thì tới Tăng Cổn sang thay, Cổn là người có tài, xử việc nghiêm minh mà được lòng dân chúng, người Giao Châu gọi là “ông thượng Tăng”. Vào thời các vị này thì Giao Châu cũng tạm yên. Suốt thời gian đó, các vị Tiết độ sứ dù là thời nào, cũng thường đi lại núi Lĩnh Sơn thăm hỏi Ngũ Phạn.

Sau này Cổn có bệnh, Chiêu Tông nhà Đường lại sai Chu Toàn Dục sang thay. Toàn Dục là người tham lam mà tàn nhẫn, trong Châu phải chịu nhiều uất ức, tới đây bắt đầu dần loạn.

Khi Chu Toàn Dục sang thay thì Ngũ Phạn vẫn còn sống, lúc ấy trong Giao Châu có sự bất mãn, dân làm loạn nhiều, Dục cũng biết như thế, nhiều lần đi tới Lĩnh Sơn nhờ Ngũ Phạn ra giúp, Phạn nói:

– Ngày xưa Cao gia (tức Cao Biền) yểm trên đất này bởi dân xứ này ưa làm loạn, đó không phải việc mới. Cái yểm đó mới chỉ được qua ba đời Tiết độ sứ, nay lại khởi lên, ông có biết vì đâu?

Dục hỏi:

– Phép của Cao gia chỉ linh được ba đời chăng?

Phạn nói:

– Không phải phép hết linh, mà do trời bỏ ông đó.

Toàn Dục biết Ngũ Phạn nói việc mình tham tàn làm lòng người Giao Châu động, nên xấu hổ không nói gì. Phạn sai tướng hồ ly trên Lĩnh Sơn xuống giúp, các đảng loạn dần lùi, việc châu quận cũng tạm được yên, từ đó tiếng tăm Lĩnh Sơn càng nổi.

Ngọn núi kì dị hết sức, có khí rất thiêng, nhưng tướng lĩnh bình thường hay các viên quan trấn nhậm ở các vùng đồng bằng về sau đều không có mắt tinh tường biết được chỗ đó mà dụng cho việc binh. Dân địa phương trong vùng vẫn biết tiếng núi là núi hồ ly mà thôi.

Về sau sang thời Ngũ Đại, Trung Quốc đánh nhau triền miên, nhà Đường dần bị suy nhược, công việc không vươn tới Giao Châu được nữa, Chu Toàn Dục phải tự kinh lý lấy mọi việc. Có việc binh khó hiểm trở lại tới Lĩnh Sơn mời Ngũ Phạn giúp.

Lúc bấy giờ trong xứ có người họ Khúc, tên là Thừa Dụ, nổi lên giữa thời loạn lạc, chiêu tập dân chúng, tụ đảng anh hào, đánh phá châu quận. Thừa Dụ giết Toàn Dục rồi chiếm lấy thành trì, dâng tấu xin làm Tiết Độ Sứ. Lúc bấy giờ nhà Đường đã yếu, không cách nào kiểm soát được nữa nên phải gia phong cho. Thừa Dụ là người gốc Giao Châu làm quan ở Giao Châu, chứ không phải Tiết độ sứ do người Tàu cử sang, vậy có thể nói xem như từ Thừa Dụ, Giao Châu được độc lập.

Ngũ Phạn thấy Toàn Dục bị giết, đem binh hồ từ Lĩnh Sơn xuống đánh thành trả thù. Phạn nổi tiếng đánh dẹp loạn ở Giao Châu đã ba đời tiết độ sứ, là thượng tướng quân đánh trận giỏi, nhưng Khúc Thừa Dụ cũng là tay cao cường. Hai bên địch nhau ròng rã hàng tháng trời, Phạn không cách gì đánh thắng được Thừa Dụ, cuối cùng phải rút về Lĩnh Sơn. Về tới núi, Phạn đổ bệnh, ngửa lên trời rằng:

– Phép của Cao Biền đã hết, giặc này đánh không nổi. Việc của Cao Biền giao, tới nay mạng chung, không thể hoàn thành.

Nói rồi tắt hơi chết. Thừa Dụ thấy Phạn đã chết, lại đem quân lên đánh Lĩnh Sơn nhưng khi tới Lĩnh Sơn thì có cơn gió từ hướng tây thổi thốc vào quân, trong gió có mùi tanh hôi nồng nặc, lại thấy có vô vàn người giấy bay ra hóa vào gió bụi. Thừa Dụ phát bệnh lạ, phải rút quân về, vài ngày sau thì chết. Con là Khúc Hạo lên thay, việc đánh núi Lĩnh Sơn vì thế cũng thôi.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.