Thu Linh nói việc của mình xong, Chấn hết sức kinh sợ, vội gượng gắng ngồi dậy lạy, Thu Linh miễn cho, nói:
– Tôi và ông có duyên gặp nhau, nhưng thân phận có khác biệt. Tôi có là quận chúa cũng là nòi hồ, ông có là mạt vận, vẫn là nòi người, chớ cần đa lễ.
Đoạn lại nói:
– Tôi nhận công vụ đến đây còn chưa làm, không nán lại lâu được. Vậy có phương thuốc tặng cho ông, ngày sau nếu ông có đắc chí, chớ quên tôi đấy.
Nói rồi cáo tạ mà đi, chỉ trong một chớp mắt đã biến mất, không còn đọng lại cả một tia gió. Thu Linh đi rồi Chấn vẫn còn kinh sợ, không hiểu tại sao lại được một thủ lĩnh hồ tộc tới tận nơi thăm viếng, trong lòng rất hồ nghi, nhưng cũng không biết thực hư thế nào.
Chốc lát sau bà già về tới, Chấn đem việc nhà có hồ ly đến kể lại ngọn nguồn, bà già nghe xong mặt tái xanh, rất sợ, nói:
– Núi Lĩnh Sơn là núi cấm rất nổi tiếng, từ thời ông bà tổ tiên đã gọi là “cấm sơn”, hồ ly trên đó không phải là giống yêu quái bình thường, thầy bùa không dám lên núi ấy trừ yêu.
Các lời con hồ ấy nói đều giống với bà già được nghe, bà ta nói:
– Ta nghe nói hồ ly trên Lĩnh Sơn đều được phong quan tước, còn được giữ cả binh phù chứ không phải bọn đi hút yêu khí bình thường. Nếu không phải là việc nhà nước thì chúng không xuống núi đâu. Mà Lĩnh Sơn cách An Định cũng xa, nếu như núi đó có hồ đi tới đất này, sợ là An Định sắp có việc gì đó đấy.
Chấn đáp:
– Cũng không rõ là việc gì nhưng chắc không can đến ta. Con hồ để ở đây một túi thuốc, nhờ bà sắc cho con uống, rồi đem chườm.
Bà già nhận túi thuốc giở coi, thì toàn là thuốc lạ. Nghe nói hồ ly có thuốc dấu trị bệnh rất hay nên cứ lấy vậy dùng, cũng không nghi gì việc túi thuốc cả, chỉ thầm lấy làm lạ trong đầu rằng Vu Chấn hết sức tầm thường, nhà cũng không có ai là thầy bùa, vậy mà hết lần này đến lần nọ nhà ấy toàn có việc quái lạ, ma thì vào làm vợ, chết rồi thì lại sống, trẻ con thì hóa hổ, tang thì trùng tang, nay lại có hồ ly tới viếng, không biết như thế nào. Nhưng mà thuốc của hồ cho linh nghiệm lắm, Chấn uống một thang thì thấy trong người khỏe ra, bà già lại đem nghiền mà chườm, thì khác vết dấu đau khỏi mủ, tới hai ngày sau thì lên da non, chưa đến tuần thì khỏi hẳn. Chấn như từ cõi chết trở về, bà già càng cho là lạ kì, từ đó hết sức cung kính.
…
Lại nói lúc bấy giờ ở trong triều, nhà vua bị đau nặng không coi được việc nước, Thuận Trinh Phu Nhân* lúc ấy đã được lập làm hoàng hậu, nhân khi đó cho gọi các anh và các người trong họ vào cung giao cho giữ binh quyền để tăng thêm vây cánh, trong vòng vài năm thanh thế họ Trần đã lớn mạnh lắm, các bậc thức giả trong nước ai cũng đều ngờ cơ nghiệp họ Lý đổ về tay họ Trần. Năm ấy anh của hoàng hậu là Trần Thừa được phong làm Phụ Quốc Thái úy*, khi mới lên nắm quyền ngay lập tức cho gọi các sĩ phu để dò hỏi về những người có tài trong nước nhằm thu dùng, trong số danh sách các người đưa lên có Lục Nghị. Trần Thừa cho gọi hết các bậc tài giỏi về triều, Lục Nghị cũng vì việc đó mà nhận lệnh về kinh, khi đó nhằm năm Kiến Gia thứ 14 (1224), cũng chính là năm nhà họ Vu gặp vạ.
(các bạn tham gia gr kín với phí 150k để ủng hộ tác giả và để đọc trước truyện nhé. stk 8000124281007. mb bank. lại văn thành. xin cảm ơn. )
Lục Nghị không kịp ở lại lo việc cho họ Vu, chỉ để lại Cù Trọng Mậu và Triệu Chân sau đó về triều phụng mệnh. Lục Nghị vào triều, được diện kiến ngài Chỉ Huy Sứ Trần Thủ Độ, là em họ của Hoàng Hậu. Thủ Độ hỏi về công việc biên cương, Nghị đối đáp trôi chảy đâu ra đấy, Thủ Độ rất yêu, lưu trong phủ riêng vài ngày. Có lần Thủ Độ hỏi riêng Nghị rằng:
– Tôi nghe ông có tài tinh thông thiên mệnh, tôi xuất thân chỉ là dân chài, không biết các thuật đó, ông có thể bày cho tôi đôi lời chăng?
Nghị lạy nói:
– Xin ngài cứ dạy.
Thủ Độ hỏi:
– Nhà vua đau lâu không khỏi, lại không có tử tôn*, đó là điềm xấu chăng?
Nghị vẫn biết Thủ Độ là tay hùng lược, đón được ý tứ chắc là không chịu dưới người ta mãi, bèn nói:
– Xưa nay trên đời có cái gì bằng mãi mà không nghiêng, đầy mãi mà không tràn? Thiên mệnh trên đời, nói chung đều theo hai chữ sinh diệt.
Thủ Độ cười lớn, tặng Nghị nhiều vàng bạc, đãi rất hậu.
Được ít hôm thì có Cù Trọng Mậu vào tới kinh, Nghị cho gọi ngay tới gặp hỏi việc của Vu Chấn, Mậu cứ thưa lại đúng mọi việc, Nghị nói:
– Thế thì Vu Chấn chắc là an lành, chỉ thương ông bà già nhà ấy.
Lại thêm ít hôm thì có gia nhân vào nói việc Hà Thanh không nghe theo lời Trọng Mậu, đã giết cả hai cha con Vu Chấn. Nghị đang ăn mà rơi cả đũa, đoạn hất tung cả mâm cơm, bọn thủ hạ đều tái mặt.
Nghị giận lắm, nói:
– Thằng họ Hà không coi ta ra gì. Hắn ra từ cửa nào mà hống hách tới vậy?
Cù Trọng Mậu nói:
– Cậu ruột hắn là Điền Cảnh Bá, làm quan Châu mục ở Châu Gia Lâm, thanh thế rất lớn, triều đình cũng không động vào. Châu quận rộng như vậy, gần như nằm riêng vùng vẫy một nơi.
Nghị gật đầu, nói:
– Để rồi xem.
Đoạn rót ly rượu đầy, vãi ra đầy đất, tràn nước mắt khấn khứa cho Vu Chấn, rồi lập tức thay đồ sang dinh yết kiến Trần Thủ Độ.
(* Khi xưa vào thời loạn, thái tử có lần lánh nạn đi tới thôn Lưu Gia ở đất Hải Ấp, tại đây thì cưới người con gái họ Trần làm vợ. Về sau loạn dẹp yên, thái tử về kinh lên ngôi vua, thì đem người con gái họ Trần về, sách lập làm Nguyên phi, sau lại lập làm Thuận Trinh Phu Nhân. Mẹ nhà vua thấy anh em Phu Nhân được phong trong triều đông đúc, sợ có sự không lành nên nhiều lần muốn giết Phu Nhân nhưng vua yêu nên đùm bọc cho. Vua ngày càng yêu Phu Nhân, về sau phong lên tới hoàng hậu, hoàng hậu bèn đem những người anh em như Trần Tự Khánh, Trần Thừa, Trần Thủ Độ vào cung giao cho binh quyền, từ đó họ Trần có quyền. Sau khi phong hoàng hậu và giao binh quyền cho bọn người họ Trần rồi thì nhà vua phát điên, thuốc chữa không công hiệu, có chứng cuồng dịch, khi thì xưng là thiên tướng giáng hạ, tay cầm giáo mộc, búi tóc cắm lá cờ, đùa giỡn múa may, khi thì toát mồ hôi, uống rượu say mê man cả ngày, các việc chính sự lớn nhỏ đều để họ Trần tự liệu lấy. Vua không có con trai, chỉ có hai con gái, sau này truyền ngôi cho con gái thứ rồi cuối cùng mất vào tay họ Trần. Vua bệnh trở nặng, mỗi khi nghe kinh Phật thì bệnh dịu, bèn ra tu ở Chùa Chân Giáo, xa lánh hoàng hậu, từ đó bệnh lại khỏi, nhưng chẳng được bao lâu sau thì bị họ Trần giết hại ở trong chùa.)
Lời bàn: Vua trái lời mẹ mà yêu vợ, từ đó làm đầu mối họa. Cơ nghiệp của cha ông, mà sau lại giao quyền cho nhà vợ liệu mọi việc, từ đó thì hóa điên, ai dám nói cái hóa điên đó không phải trò phù phép của kẻ có quyền? Trần triều lắm bậc ma mị có tài phép dị thuật, thật là khó nói. Vua chỉ sinh được con gái, sau này truyền ngôi cho con gái là điều hiếm thấy xưa nay, con gái không giữ được ngôi nữa thì cũng là lẽ bình thường, phải chăng đó là điềm trời, đã cho họ Lý đến lúc diệt? Vua sau này bỏ quyền đi tu, xa lánh chỗ ma khí, thì bệnh lại khỏi, phải chăng đó người ta nói: “Cửa thiền môn, yêu quái chẳng thể vào?”, nhưng trời đã định rồi, thì có lánh đi đâu chắc cũng không khỏi, bởi thế mà bị giết trong chùa bởi người nhà vợ vậy. Lục Nghị là bậc kì tài, việc võ công hay việc chính trị đều giỏi, sách nói: “Bậc thức giả trong nước đều biết cơ nghiệp nhà Lý chắc là phải đổ”, Nghị cũng là bậc thức giả nên chắc dò biết ý Thủ Độ là ở chỗ đó, chỉ có điều rằng cha con Nghị đều làm quan triều Lý, vua tuy có u mê mà chưa tới nỗi bạo ngược, không đáng phải như thế. Vua chỉ vừa thất thế, Nghị là bề tôi đã vội đón ý chủ mới, chắc cũng là chỗ thiếu sót của người quân tử. Nếu có ai bênh mà xét ra cho Nghị, chắc chỉ xét rằng vua u tối không biết dùng người, khiến cha Nghị phải chịu khốc hình mà vong mạng, nên Nghị chẳng thiết tha gì với tiền triều, tới khi có họ Trần biết dùng mà gọi về, Nghị liền theo ngay vậy thôi.