Mạc thị tỉnh dậy lập tức đi tới xem chồng, rồi gặng hỏi sự việc. Hà Thanh nói:
– Chỉ là vết thương của kẻ thù hằn, không việc gì phải ngại.
Mạc thị dò hỏi kẻ nào làm, Thanh nói:
– Là kẻ điên ngoài đường.
Mạc thị hết sức lo buồn mà khóc lóc, Thanh cho là phiền không nghe nữa đuổi ra, rồi cho gọi người thiếp tới hầu hạ.
Mạc thị gạt nước mắt trở về phòng, nói với bọn người hầu:
– Ta gặp giấc mộng lạ, chủ nhân làm điều ác, có con hổ muốn ăn thịt chủ nhân, nhưng nó nể ta là người đệ tử Phật nên còn tha chủ nhân, mai này ta chết, chủ nhân tất nguy.
Nói rồi không kể ngày đêm, chuyên tâm tụng trì kinh Địa Tạng giải bớt oan chủ cho chồng, quên cả việc ăn ngủ. Mỗi ngày đều quỳ lạy dưới tượng ngài Địa Tạng, hồi hướng đến Địa Âm Tự, cầu xin ngài gia ơn cứu vớt. Càng trì tụng, càng thấy thân người mệt mỏi nhức nhối không sao đừng được.
Hà Thanh biết chuyện, căm tức lắm, nói:
– Con mụ chán sống, sỉ nhục ta nói ta làm ác, lại quở ta nhanh chết để tự tâng công. Mụ nói mụ chết thì ta tất chết ư? Vậy để ta giết mụ trước, xem ta có chết hay không!
Nói rồi toan đuổi đi, bọn gia nhân xúm lại can mới thôi, nhưng lại cho người đi đập nát hết cả tượng Phật, vứt hết kinh sách ra ngoài.
Mạc thị khóc lóc vật vã, người nhà ai cũng xót xa, Hà Thanh không cấm cản được bà cầu nguyện nhưng không cho lập đền thờ Địa Tạng Bồ tát trong nhà nữa. Bà bèn sai người đi tìm chùa thờ ngài Địa Tạng Bồ tát, sau tìm được chùa Lâm Minh của sư Thiết Không chủ trì ở cách đó không xa, từ đó mỗi ngày đều tới chùa ấy cầu nguyện.
Mạc thị lại sai người đi dò la xem người đâm chồng là ai, bọn hầu báo rằng là một người ăn xin bị bệnh điên, mấy ngày nay chịu tra tấn trong ngục. Mạc thị nhớ lại giấc mộng, biết với điềm ứng, đó chắc phải là vị tướng quân hóa hổ, bèn cố hết sức lo lót, cuối cùng cũng tìm được dịp bí mật vào gặp.
Mạc thị gặp Vu Chấn trong ngục, kẻ nằm trong tối, kẻ ngồi ngoài sáng, cách nhau bức cửa ngục. Mạc thị bảo thắp đuốc lên coi, thì thấy Vu Chân nhìn không còn ra hình người, mặt mũi đã nát bấy, cho tới toàn thân đều nát bét đòn roi vọt dùi đâm, sắt nung đỏ lửa, tay chân bị đánh gãy, trên người chằng các vết chém không sót chỗ nào, chỉ còn thoi thóp chút hơi tàn.
Mạc thị nhìn thấy thì kinh hãi tới rụng rời, hồi lâu đổi thành thương xót, không thể nào mà ngăn nước mắt tràn. Người cai ngục ái ngại nói:
– Chốn lao tù là nơi dụng hình, thật làm bẩn mắt lệnh bà, xin hãy đi cho.
Mạc thị khóc nói:
– Người ấy đã sắp chết, có thể nào cho hắn được thư thả hay không?
Cai ngục nói:
– Hắn dám lén đâm quan lớn, chưa giết hắn là bởi còn để điều tra tông tích xem ai xúi, thật khó để thong thả.
Mạc thị lại đưa nhiều tiền bạc, bọn chúng mới chịu lót ít đệm ấm, dọn dẹp lại phòng, đem cơm nước, băng bó cho Chấn. Mạc thị đem cơm đưa vào trong ngục, rồi quỳ lạy trước Vu Chấn, khóc rằng:
– Chồng tôi tội nghiệt thật nhiều, cúi kính ơn trên rộng lòng soi xét.
Vu Chấn nằm thở hấp hối, chỉ gượng hết sức đánh mắt nhìn Mạc thị, không nói nổi lời nào.
Bọn cai ngục đều kinh sợ, khuyên can thế nào Mạc thị cũng không đứng lên, chúng cũng sợ tội nên không dám báo cho Hà Thanh, cuối cùng đành bức đưa Mạc phu nhân đi. Từ hôm đó cứ ngày hai lần, Mạc thị cứ lựa đường luồn cúi, che giấu tai mắt, lén vào thăm họ Vu, mỗi lần vào lại khóc lạy. Bọn cai ngục thấy thế cũng không dám tàn tệ với Chấn cho lắm.
Khi ấy Gia Lâm đã chống lại triều đình, không cần nộp thuế, Điền Gia tự phong cho Hà Thanh lên chức ngự tướng quân, Tri châu quân sự, viết sớ dâng lên triều, triều đình đang muốn giữ yên mặt đó bèn phê duyệt. Hà Thanh quyền đã to lại càng to, ngày nào người tới cửa ra vào làm thân cũng nườm nượp, uy thế át cả vùng. Trong nhà ai cũng lấy làm mừng rỡ, riêng Mạc thị càng lúc càng thêm sầu não, biết là đại họa đã sắp đến, càng ráo riết tụng kinh, rồi lo sầu tới mức phát bệnh.
Có lần nọ Mạc thị đi ra chùa Lâm Minh, hôm ấy trụ trì là ngài Thiết Không ở trong chùa, đang lập đàn cúng chay sám hối, bà cùng ở lại dự. Đương tới khi kinh vào khúc ai, bỗng chốc lại thấy đầu óc quay cuồng, khói xám tuôn mù mịt từng chặp, quang cảnh hết sức giống như trong giấc mộng lạ, rồi đột nhiên trên tượng hiện ra nhân ảnh một vị. Vị đầu đội mão tỳ lư, có hào quang sáng rực, ngồi trên tòa sen trắng. Tay trái vị ấy cầm viên ngọc Như Ý, tay phải cầm thanh Tích Trượng quyền thần, mặc áo cà sa đỏ, trông tướng mạo uy nghi rực rỡ. Bên cạnh vị ấy là một nhà sư, mặt đen như than, chính là vị sư dạo nọ trong giấc chiêm bao dẫn bà tới cửa Huỳnh Tuyền vậy. Vị ấy nâng viên ngọc Như Ý lên, tức thì mây mù đều tan biến, đoạn gõ Thanh Tích Trượng, một cánh cổng lớn liền lập tức hiển lộ ngay trước mắt phu nhân.
Mạc thị biết là Bồ tát Địa Tạng hiển linh, phủ phục xuống sụp lạy. Ngài nói:
– Con sói xám còn chưa biết sợ cửa địa ngục, chắc không thoát được nạn hổ vồ.
Mạc thị khóc nói:
– Con ngày đêm tụng kinh, công đức ấy thế nào?
Bồ tát đáp:
– Ngươi thành tâm chí nguyện, do đó bậc thầy hiển linh. Chúng sinh u mê vô bờ, làm nên nghiệp báo, bởi thế mà Thích Ca xuất hiện, hiển bày các pháp, cứu vớt chúng sinh điên lộn ra khỏi rừng mê. Người mà mê mãi chẳng tỉnh, đó là do căn cơ nghiệp chướng, chẳng thể sớm chiều mà giải, nhưng chớ thấy khó mà nản, cứ nên chuyên tâm tinh cần, thì nghiệp chướng dần rồi tan hết, lầu cao bốn tầng* tuần tự đi sẽ tới, giới phẩm bốn đàn, cứ vượt sẽ là bờ.
Mạc thị hỏi:
– Vì đâu con hết lòng, mà nghiệp nhà vẫn thế?
Bồ tát lật giở viên ngọc Như Ý, từ trong đó hiện sáng lên nhân quả ba đời, đoạn nói:
– Kiếp trước ngươi là kẻ đánh bạc, khiến tâm thần ngu tối, sau cuối phải bán vợ đợ con, con ngươi bị bán cho nhà chủ, bị hãm hiếp đến chết, khi chết uất hận mà sinh ra niệm, kiếp này ngươi phải trả nợ số tiền bán con đó. Con ngươi kiếp trước, là chồng ngươi kiếp này, bởi thế mà dù đau đến đâu cũng không thể dứt, hết lòng cúc cung cũng bị ghét bỏ, chẳng khác nào đứa con hư thù mẹ oán cha.
Mạc thị lại lạy nói:
– Cúi xin Bồ tát thương xót mà chỉ cho con đường.
Bồ tát đáp:
– Ân oán tương báo, muốn dứt phải dứt ở gốc. Đâu là mầm họa, hóa giải từ đó thì hơn. Căn lành sớm phát, đó chính là kẻ trai lành gái tín, hãy nên nắm lấy, vì kiếp người chẳng còn bao lâu.
Nói rồi khói xám lại từ từ hóa lên, Mạc thị kêu gào níu giữ nhưng thoáng chốc chẳng còn thấy đâu nữa. Đến khi quang cảnh bình thường nhìn lại thấy ai cũng nhìn mình kinh hãi, hóa ra nãy giờ đang tụng kinh bỗng nhiên phát rồ dại vật ra khóc lóc bi ai.
Chỉ duy có nhà sư Thiết Không ở đó biết việc, can ngăn người nhà để kệ cho la hét, bấy giờ hồi tỉnh lại bình thường. Nhà sư nói:
– Đêm qua tôi có mộng đẹp, thấy sen nở mây vàng, biết hôm nay có bậc đại nhân giáng hạ nên đích thân ra lập đàn cúng, có phu nhân tới đây chắc là đúng việc rồi.
Nhà sư bèn giải đàn, rồi mời phu nhân vào phòng riêng trò chuyện.
Bấy giờ sư xem thần khí, nói:
– Phu nhân vừa mới thấy gì?
Mạc thị kể lại nguyên việc vừa rồi. Sư nói:
– Chúng sinh không giác ngộ bản chất mọi vật là trống vắng, từ đó ý thức nghĩ xằng, gây ra bụi rộn. Bởi thế chư Phật ra đười, xem bệnh cho thuốc. Người không có việc, chắc chẳng có hiển linh.
Mạc thị bèn đem kể hết nỗi thống khổ.
Sư nói:
– Thật hay tôi có một người bạn đã chờ phu nhân ở đây từ lâu, người ấy chắc là giúp phu nhân được.
Bấy giờ từ sau bức vách ngăn có một người bước ra. Người ấy mặt mày quắc thước, uy nghi anh tuấn, mặc đồ lam nhà chùa, ăn mặc chất phát cố che giấu hình tích, nhưng cũng không che được vẻ thần dũng. Người ấy nói:
– Bà là người có tâm, vậy xin thưa với bà, người trong ngục với tôi là chỗ quen biết, có mối cừu thù với quan lớn mà nghĩ xằng làm càn, đó là cái gốc gây ra mối họa bệnh của bà. Nếu bà giúp cho người ấy ra được chốn ngục tù, thì công đức ấy to lắm.
Mạc thị rơi nước mắt nói:
– Tôi cũng muốn thế, nhưng phận nữ nhi quyền chẳng ở tay, chẳng biết cách gì.
Người ấy nói:
– Xin tìm cách đưa tôi vào đại lao, tôi có thể giúp cho ra được.