Triệu Chân được Mạc phu nhân đưa vào trong phủ, người trong phủ đều nghĩ là gia bộc của bà cả nên không ai hỏi gì tới, Chân cũng cố ý giả trang cho bần hàn nên vào được an toàn. Mạc phu nhân hỏi Chân:
– Người trong ngục với ông là quan hệ thế nào? Người ấy muốn giết chồng tôi, nay tôi đưa ông vào đó, trách sao cho khỏi cái tiếng nhơ dẫn giặc vào nhà?
Triệu Chân nói:
– Người trong ngục là người bị chồng bà hại chết mất cha mẹ, vợ con, đến nay quyết ý phục thù nhưng không được nên bị bắt. Tôi chỉ cứu y ra cho tròn chữ nghĩa, chứ sức của y thì làm gì được chồng bà nữa?
Mạc thị nghe thế thì khóc lớn, nói:
– Quỷ thần giận mà hóa thành điềm hổ, tới nay thì Bồ tát cũng giận, như thế làm sao chồng tôi bảo toàn được nữa? Đúng là nghiệp chướng.
Nói rồi từ đó sinh bệnh, bệnh đã nhuốm kể từ khi tụng kinh, nay càng lúc càng phát nặng. Mạc thị nhân lúc còn đi lại được, một lần nọ lẻn dẫn Triệu Chân vào ngục nơi giam cầm Vu Chấn, rồi lặng lẽ trở ra canh chừng bên ngoài cho.
Triệu Chân được vào trong ngục, bấy giờ nhìn Vu Chấn chỉ còn thoi thóp hơi tàn, bất giác ứa lệ, ngồi bên cạnh, bỏ đồ giả trang, rồi hỏi:
– Ông có nhận ra tôi không?
Chấn gượng ngước lên nhìn thì nhận ra Chân, Chân nói:
– Ngày đó bảo ông lập mưu giết Hà Thanh, ông không nghe, giờ lại tự đi trả thù một mình để đến nỗi này, là thế nào?
Chấn đáp:
– Ông là người uy dũng mà lại nhân nghĩa. Ông theo mệnh chủ nhân của ông mà bị phiền lụy vào chuyện của tôi, tôi vẫn còn đang áy náy chưa biết làm sao, vậy tôi đâu nỡ để ông cùng chịu vạ với tôi? Lúc ấy tôi lại có đứa con thơ ở nhà chờ, không dám tùy tiện. Nay con tôi hóa thành hổ, đã bị người ta giết, tôi đâu còn có nỗi lo nào?
Nói rồi thổ ra một đấu máu, Chân rất cảm động, nắm chặt tay Chấn mà nói rằng:
– Đúng là xét người không thể chỉ nhìn vào vẻ ngoài. Tôi đã hiểu sai về ông, con mắt tôi còn kém mắt cậu Nghị nhiều lắm.
Chấn lòng dạ ruột gan rối bời tan nát, hai con mắt bỗng đỏ lựng lên tròng, uất hận dồn nén không sao vơi được, phát tiết thành dòng máu đổ dài trên má, nói:
– Thân này đã tàn rồi, mối thù hại chết cả nhà, ai sẽ báo đây?
Triệu Chân nói:
– Tôi cứu ông ra trước, rồi sẽ tính chuyện báo thù cho ông sau, xin ông chớ lo.
Đoạn Chân đặt vào trong buồng giam một hình nhân giấy được Cù Trọng Mậu đưa cho từ trước, trên ghi “Vu Chấn”, rồi xốc Chấn dậy dìu ra ngoài. Cả người Chấn mềm oặt, cứ mặc cho Triệu Chân đưa đi. Mạc thị đã chờ ở ngoài sẵn, bấy giờ cùng đem người bỏ lên xe kiệu rất kín. Bọn coi ngục đã quen việc Mạc thị thường hay vào trong ngục hỏi han người điên kia và thăm hỏi sĩ tốt, nên cũng không để ý gì. Xe kiệu đưa đi rất là gấp, tới khi xa rồi thì đã ra đến một khoảng đất vắng. Bấy giờ Triệu Chân dìu Chấn xuống. Mạc thị nói với chúng:
– Bây giờ nhà ngục chắc đã biết việc trốn tù, quan quân chắc sẽ lần ra tới đây ngay bây giờ, các ông hãy nhanh chóng trốn vào nơi rừng sâu thì được bảo toàn.
Triệu Chân hỏi:
– Còn phu nhân thì biết làm sao?
Mạc thị cười nói:
– Tôi có ra sao cũng là vợ, chẳng hề chi.
Hai người còn chưa kịp cảm kích, Mạc thị đã giục phu cho ruổi ngựa quay ngược lại, Triệu Chân bèn dìu Vu Chấn trốn vào trong rừng.
…
Hà Thanh biết chuyện Mạc thị thả người tù ngục ra thì nổi trận lôi đình, sai quan quân bắt người phu ngựa của Mạc thị lại tra tấn, người ấy sợ tội, lập tức dẫn bọn chúng lần theo dấu vết, nhưng khi tới nơi thì Triệu Chân đã đưa Vu Chấn đi xa khỏi nên quan quân đành quay về. Mạc thị cũng bị Hà Thanh cho tống giam vào ngục, bấy giờ bệnh đã trở nặng, ở trong ngục tối thiếu thốn cực khổ, bệnh mỗi lúc lại nặng thêm mà Thanh cũng chẳng một lần đi tới hỏi han, người trong phủ cũng không dám tới, chỉ có một con hầu và một bà vú già đưa cơm, đưa thuốc, giúp cho lau người. Mạc thị nén đau, đều đặn ngày ngày tụng kinh, được ít hôm thì không ngồi được nữa, lại nằm tụng kinh. Đến một ngày nọ, lại thấy trong cảnh mơ màng, chợt nhìn ra đang ở một nơi chùa chiền rất là đẹp, xung quanh có lửa cháy rực, nhưng khi Mạc thị đi vào cổng tam quan, thì lửa đó không cháy nữa, mà hóa thành ánh sáng vàng, Mạc thấy hiện lên cổng chùa ba chữ ‘Địa Âm Tự”, tâm thái tự nhiên phơi phới, rảo bước đi vào ngay.
Vào tới sân chùa thì gặp một nhà sư mặt đen như than, chính là người lần trước từng gặp, nhà sư nói:
– Bà trả nợ xong cho chồng chưa mà tới đây?
Mạc thị chắp tay rằng:
– Bạch thầy, họa diệt từ gốc. Ông chồng giết vợ con người ta, tới nay con cứu người ta, đã là trả nợ.
Sư cười rằng:
– “Khuynh gia bại sản, nhanh nhất là cờ bạc
Tổn đức mất nết, mạnh nhất là cờ bạc.
Sa vào cờ bạc như rơi biển mê, không dò ra đáy
Nghiện vào đen đỏ như đi rừng rậm, chẳng thấy lối ra.
Phàm kẻ làm ruộng buôn bán đều có nghề nghiệp, kẻ học trò đọc sách càng tiếc thời giờ.
Đọc sách cầm cày vốn là đường chính để thành gia, ly rượu chung trà cũng là niềm vui trên cõi thế.
Thế mà lại,
Theo bạn xấu rủ rê,
Suốt canh khuya đàn đúm.
Nghiêng rương vét tủ, treo vàng mơ trên mấy tầng trời
La thắng thét ù, xin thần giúp trong trò ngu dại.
Năm con xúc xắc đổ tựa gieo châu
Mấy lá bài chia cầm như xòe quạt.
Liếc bài người lại ngó bài mình, chán cho mắt quỷ
Bài thì tốt mà kêu là xấu, giở đủ trò ma.
Trước cửa bạn hiền thăm, còn luyến lưu sòng bạc
Ở nhà cơm nước đợi, vẫn mê mải chiếu may.
Quên ăn bỏ ngủ, lâu ngày thành mê
Mặt sạm môi chì, nhìn xem tựa quỷ.
Tiền hết bán vợ đợ con, cũng muốn cầu may thủ vận,
Chẳng ngờ vứt lông vào lửa, chỉ là đáy nước mò trăng.
Than ôi, cờ bạc chính là một con đường dẫn tới chỗ tổn đức mất nết, tan cửa nát nhà đấy.
Chẳng những thế, chết đi rồi, kiếp này trải dài trả nợ
Bị hành hạ, lại bị chịu cảnh ngục tù
Đánh bạc tất nợ, nợ tất trả
May ăn có tiền, rồi cũng đến lúc ra ma.”
Mạc thị nghe nói, cúi đầu im lặng. Sư bảo:
– Bởi công đức tụng trì kinh Địa Tạng, mà tội nghiệt tới đây là được, chẳng phải đọa đày thêm kiếp, khi kinh có công hiệu, đó là lúc mà bệnh nhuốm thân. Tới nay ân nợ đã dứt, bởi vì bà đã hết lòng như thế, nên cho toại ý vậy.
Mạc thị rơi nước mắt nói:
– Xin hỏi con đã đi rồi, vậy chồng con liệu có còn được bình an không?
Sư đáp:
– Vận khí mỗi người đều có, bậc thần Phật cũng chẳng thể quản nổi, huống chi là mình. Nếu có kiếp sau thì bà chớ có đánh bạc, nên nhớ như vậy.
Nói rồi mỉm cười, Mạc thị cúi đầu chắp tay, sư hóa thành con chồn trắng, trong chốc lát chạy biến vào trong chùa, lửa từ hai bên cửa chùa, lại bùng lên cháy ngùn ngụt.
…
Mạc thị nghe tiếng có người gọi mình thì mới lơ mơ tỉnh lại, nhìn thấy con hầu và bà vú già trung thành đang lay gọi bên cạnh, cả hai đều rơm rớm nước mắt. Thị chợt tỉnh táo lạ thường, mỉm cười nói với chúng:
– Ta sắp đi rồi, chủ nhân của các ngươi chắc cũng không được bền lâu, các ngươi nên về quê đi.
Con hầu với bà vú nghe thế sợ lắm.
Đến đêm ấy bệnh phát lên tim, Mạc thị Trinh hộc máu chết trong ngục tù. Cũng bởi việc này mà sau có nhiều người dè bỉu chuyện người ta đi chùa cúng bái, những người vô thần nhân vào đó đều bảo: “Đi chùa như phu nhân nhà họ Hà, cuối cùng không có con cái, bị chồng ghét thiếp khinh, cuối đời phát điên sợ thần sợ quỷ, sau cùng chết trong ngục tù, thử hỏi cầu Bồ tát, có lợi ích gì?”
Việc này là vào năm Kiến Trung thứ ba thời nhà Trần.
…
Lời bàn: Nói về việc Mạc thị Trinh cũng lắm cái nói. Bởi nợ từ kiếp trước mà tới kiếp này trả, do đó dù thật là tốt vẫn bị người đời tàn tệ, nhưng bỏ cũng chẳng bỏ người ta mà đi được, đó là do phải trả nợ cho người ta đấy! Việc như thế, ở thời nào cũng có chứ có kể chi triều đại? Lại nói nhà sư ở trong chùa thì hóa thành sư, muốn dọa người phải dẫn người ra khỏi chùa mới hóa thành chồn mà dọa được, đủ thấy cái uy lực Phật môn cao vợi, ấy thế mà Cù Trọng Mậu dám dùng yêu thuật, cắt hình nhân mà thế thay cho Bồ tát, chỉ sợ vướng vào trọng nghiệp, chẳng thể thọ được mà thôi. Bồ tát ấy là giả, nhưng giấc mơ cuối đời lại là thật, đó là thế nào? Phải chăng một lòng tín tâm của vị trai lành gái tín mà làm cho đất trời thấu cảm, khiến Bồ tát hiển linh, biến giả thành thật đó chăng? Hà Thanh giết vợ Vu Chấn, vợ Hà Thanh lại cứu Vu Chấn, sau cùng vợ Hà Thanh lại chết để trả bớt nghiệp cho chồng, đó có xét là nhân quả không nhỉ?