Lại nói tới đứa trẻ Vu Đạt là con trai của Vu Chấn và Tứ Nương, năm ấy nhà gặp họa lớn, cha mẹ ông bà đều bị hại. Đạt là trẻ thơ không biết gì, lẽ ra cũng bị chết chung nhưng được một vị đạo sĩ hiệu là Tiên Tử Chân Nhân tu ở núi Bạch Hạc cứu sống ra khỏi lao ngục, đoạn mang đi khỏi đất ấy đem về nuôi ở núi Bạch Hạc Sơn.
Đạt lớn lên trong cảnh núi rừng thanh bạch, ăn gạo phép, uống đọt sương, mặc lá cây, tắm hương ngũ vị, cứ vậy được vài năm thì dần biết đi đứng, biết nói năng, Tiên Tử bèn nhận làm đồ đệ, dạy cho các thuật cúng bái, tróc quỷ trừ tà. Đạt học các môn đều thông, tỏ rõ khiếu hạnh, các vị thầy trên Bạch Hạc Sơn đều rất vui lòng. Đạt ở trên núi ấy, không biết đến việc thế tục nên chẳng khi nào hỏi về cha mẹ, chỉ biết duy có thầy và các sư huynh.
Trên núi Bạch Hạc có hơn ba chục vị thầy, lại có hơn mấy trăm đồ đệ, tùy căn cơ khác nhau mà trao truyền cho các phép đạo khác nhau, có khi chỉ dạy chữ viết, có khi thì dạy phép thuật, học trò có nhiều người giỏi xuất sơn đi làm các việc ở nhân gian, có người vào kinh làm quan, có người thì làm học trò, ra quan trường, có người thì lặn ngụp trong hàng binh sĩ, có người ra buôn bán, có người hành nghề của thầy, đi cầu đảo, trừ tà, tróc yêu… hạng nào cũng có. Chúng đều mang danh là học trò Tiên Tử, nhưng chẳng phải ai cũng được Tiên Tử dạy cho, chỉ là người ở trên núi Bạch Hạc Sơn vậy thôi, rồi được học từ các vị thầy khác, là môn khách trên núi, có khi lại là học trò của Tiên Tử.
Tiên Tử là người Trung Quốc, có cốt tiên, thường thường hóa thành cánh hạc mà đi lại luôn luôn đất nam đất bắc chẳng mấy khi có ở núi, các công việc coi sóc trên núi như củi lửa, nhân sự, sách vở…đều để cho bọn đệ tử gánh vác lấy, Tiên Tử không dự vào các việc thường trần.
Học trò trên núi rất đông tới vài trăm, nhưng được chân truyền mà lại được thường gặp, hay thay Tiên Tử làm các việc quyết sách, được cả núi tôn kính và giới huyền nhân trong ngoài nước biết tiếng, gọi là đại đệ tử bấy giờ có ba người. Người anh cả là Hoàng Vũ Biên, ra đời làm quan, thiên tư trác tuyệt, các việc chính trị, cho tới việc binh gia đều am tường, lại hiểu sâu về đạo pháp, đi vào chốn quan lộ không đâu là không được đắc ý, làm tới chức tham tri chính sự (chức quan cao cấp ở hoàng cung phụ tá cho thái phó, là tay chân thân cận, nhiều khi tham gia vào chính sự quốc gia), ngày sau nhà Lý mất về tay nhà Trần, Hoàng Vũ Biên không theo vua mới, xin cáo quan về quê, rồi chán nản cũng không về núi mà đi lang thang đó đây tiêu du thưởng ngoạn, bày ra các thuật phép cứu giúp cho người trong nhân gian, gây ra công đức không ít. Chính Vũ Biên là người khách năm xưa đã xem quẻ bói cho Tô Như Tử được về với Lục Nghị, về sau danh tiếng Lục Nghị lẫy lừng ở kinh đô, Biên có biết việc đó nhưng chán ghét vì Lục Nghị ra làm quan cho nhà Trần, nên chẳng đi lại bao giờ, vợ Nghị là Tô Như Tử rất mến tiếc, thường cho người dò hỏi Vũ Biên ở núi, Biên biết thế nên cũng không hay về mấy, do vậy việc trên núi để cho người đệ tử thứ hai.
Người nhị đệ tử của Tiên Tử là Nhược Bân, người này trước cũng ra làm quan, làm đến chức Chư lộ Trấn Trại ở Lộ Long Hưng (nay là tỉnh Thái Bình), coi việc binh mã. Ngày sau triều Lý suy đồi, triều Trần lên thay, Bân cũng cáo quan về quê, về lại núi chuyên tâm vào học đaọ pháp tu tiên, nên dùng đạo hiệu, gọi là Xuất Thế Tiên Sinh. Lúc bấy giờ V ũ Biên không về núi, Nhược Bân lo hết các việc trên núi, được xem như người gánh vác trọng trách sau này cho núi Bạch Hạc. Về sau vương thất nhà Lý còn gây dựng lại chỗ này chỗ kia, Vũ Biên thấy Nhược Bân còn nặng lòng với triều cũ nên rủ theo, Bân bèn bỏ núi mà đi mưu tính công việc khôi phục cho họ Lý, các việc trên núi để cho người đệ tử thứ ba là Lê Phúc Chương. Khi Vu Đạt được đưa về núi là lúc Phúc Chương chủ trì ở núi.
Lê Phúc Chương người Châu Phong (Phú Thọ, Yên Bái), con của một viên quan binh trấn thủ trong Châu. Khi có loạn nổi lên, cha mẹ đều bị giết hại, lúc bấy giờ Chương mới có tám tuổi, giắt một con dao ngắn trong người rồi nằm lên xác người mẹ. Giặc đi qua không ngờ gì tới, Chương nhảy lên đâm chết hai tên giặc mà không ghê tay. Đầu đảng giặc là Tôn Văn Trinh thấy là đứa trẻ lạ nên không giết, đem về nuôi nấng. Chương gặp Văn Trinh nói:
– Con lên mười bốn tuổi, chắc là phải giết ngài để trả thù cho cha mẹ ruột, vậy nay nên giết con, hoặc để con đi.
Thủ hạ bảo giết nhưng Trinh vẫn không giết, cứ cho ăn nuôi nấng, Chương ở suốt mấy năm với đảng giặc, làm các công việc văn thư, củi lửa linh tinh, có khi được lên hầu tướng giặc nhưng không bao giờ có ý ám sát. Khi Chương lên mười ba tuổi thì mài một con dao rất sắc đem theo bên người, người ta hỏi làm gì, Chương nói để sang năm giết thủ lĩnh. Trinh biết việc ấy, vẫn không đành giết, bèn đem lên Bạch Hạc giao cho Tiên Tử, nói:
– Đứa trẻ này có thể làm nên kì vọng trên đời.
Rồi bái biệt ra đi, từ đó Chương ở với Tiên Tử, được tâm ấn trao truyền, trong vòng ba năm được xem như đại đệ tử. Hai sư huynh lần lượt rời núi, Chương giữ các việc trên núi mà khi đó mới có mười sáu tuổi, thế nhưng môn hạ trăm người, có người đã già, không một ai dám xem thường. Lê Phúc Chương chăm sóc Vu Đạt kĩ lưỡng, có thể nói Đạt lớn lên trên núi này, ân tình với Chương thật là sâu nặng nhất. Khi Đạt lên mười ba tuổi, Chương gọi lên, nói:
– Đạo pháp chọn người mà trao truyền, với mỗi người lại không giống nhau, có người trọn đời, có người thì không trọn, người nào biết được mệnh mình thì làm gì cũng thuận lợi. Chỉ có điều rằng “ngũ nhi chi thiên mệnh” (đến tuổi năm mươi có thể biết được mệnh trời, hiểu được mệnh mình), còn thì người trẻ hơn chẳng ai biết được mệnh mình cả, do vậy mà trong đời người ta hay điên lộn làm càn, đến già mới bắt đầu cảm ngộ nhưng ôi thôi, kiếp người đã qua mất rồi còn đâu? Hối tiếc có được gì? Có đi lại con đường được hay không? Bởi thế hầu hết thành danh khi còn trẻ tuổi, hoặc đi cho đúng đường để khỏi lỡ làng một đời của người ta, mười thì hết chín bởi do có người trên chỉ dắt, chứ thật không thể tự biết. Nay ta xem nhà ngươi khí vận phong tư, đều không phải kẻ tiên cốt mà tọa thiền quanh năm, ngày nối ngày chỉ làm bạn với cỏ cây thiên phong, đối ẩm với lang trùng thú lạ, ngươi cần đi khỏi núi này, dùng các điều được học mà khiến cho thiên hạ được trị, đó mới là con đường đúng đắn.
Đạt nghe theo, Chương bèn bạch việc này lên với Tiên Tử. Tiên Tử gọi Vu Đạt lên, truyền nói:
– Ngươi là con hổ trắng hóa thai mà thành, duyên nghiệp với nhân gian chưa thể hết. Khi ngươi sinh ra, trên lưng có chín chấm trắng, là chín vết tên bắn bị phường săn bắn ngày xưa khiến ngươi vong mạng. Trong đời ngươi phải giết chín kẻ, về sau mới tu được đạo. Ngươi có căn sâu sắc, nên lúc sinh thời làm động tới xung quanh, ta liền đến xem. Cha ngươi là hổ, mẹ ngươi là ma, thân phận với loài người có khác, ngươi về nhân gian, phải giữ kín lấy điều ấy. Làm người phải có tổ có tông, phải biết về nguồn cội. Cha ngươi khi còn sống có một người bạn, họ Lục tên Nghị, làm quan ở kinh đô, ngày xưa từng trấn nhậm ở đất Lạng Giang, có cha là Lục Thanh Hải. Ngươi nên tới gặp ông ấy sẽ được nghe về gốc tích. Hãy đi cho mau nếu không thì sợ không kịp gặp.
Nói đoạn đuổi Đạt đi xuống núi, Đạt cứ vương vấn mãi không thôi, mà về sau thấy trên núi chẳng có một người nào xuống tiễn, cũng đành lủi thủi ra đi, tới kinh thành hỏi nhà họ Lục.