Thư phòng nến vẫn còn thắp, trầm vẫn còn thơm, Lục Nghị nghiêng người đọc sách dưới ánh sáng, trong lòng cứ cảm thấy rạo rực kì lạ không yên. Lúc ấy có tiếng gõ, rồi cửa phòng đẩy mở, người hầu vào báo có Trình Văn Sinh tới yết kiến. Nghị như có điềm, đứng bật dậy ngay đi ra nhà tân khách tiếp chuyện, Văn Sinh thưa lại việc lạ kì rồi xin ý chủ nhân. Nghị nghe xong giật mình bảo:
– Chắc Vu Chấn nghĩ ta bạc đãi con hắn, nên hiện thân mà quở chăng? Đứa trẻ ấy có mẹ là ma, mà bắt được phép của đạo sĩ ở chợ, thì có nòi huyền nhân rồi đấy!
Nói rồi sai Văn Sinh đi đến nhà kể lại đầu đuôi rồi gọi ngay Cù Trọng Mậu tới trong đêm, lại sai bọn người trong phủ dọn dẹp phòng ở cho Vu Đạt.
Cù Trọng Mậu nghe việc xong thì vội vàng tới ngay. Kế đó sai người canh gác các phía, không cho bọn tuần đêm đi qua, đoạn lập lên đàn, mang theo giấy hoàng vị, trầm gỗ đào, làm các phép thuật ngay trước cửa phủ họ Lục. Trước cửa Lục phủ có hai con nghê đá trấn giữ, Mậu làm phép xong dán hai lá bùa đỏ lên trán nghê, rồi sai thủ hạ bê nghê đá đem đi, kế hai người vào phòng, đốt trầm hương, bày ra bàn trà đối khách. Cù Trọng Mậu bày lên bản vị sinh ứng (bản vị lập ra tức thời của một người đã mất có bài vị đặt ở nơi khác, nhằm làm phép gọi cho người đó về bản vị, dân gian còn gọi là phép hú hồn), kế múa kiếm cầu cúng gọi hồn. Lục Nghị ở bên dưới đàn, thành tâm hết sức.
Thuật gọi hồn thi triển ra chưa tới nửa canh giờ, thì thấy trên đàn giới có động, các nến đều tắt, có tàn lửa bay vụt từ đèn ra đốt cháy bản vị sinh ứng, bản vị này bắt lửa cháy ngay. Đoạn lửa ấy lan ra phủ khắp đàn, kế tới phủ khắp nhà hừng hừng như nuốt chửng gian phòng. Lục Nghị kinh hãi lắm, nhưng Mậu nói:
– Cậu cứ ngồi yên đó, ngài phán quan tới đấy!
Nghị thấy lửa ấy lan tràn, tưởng như hỏa hoạn, nhưng trong phút chốc lại thấy lắng lọng yên ổn, lửa vẫn bừng bừng nhưng không thấy thiêu nóng, rồi trong đám lửa rực ấy, từ trên bài vị, nào người nào ngựa, xe kiệu nghiêng trời, ùn ùn kéo ra, hóa to chật kín hết cả gian phòng giới.
Bấy giờ có bà già bước lên, cúi chào thi lễ. Lục Nghị nhìn bà ấy dung mạo già cỗi, tuổi cỡ chín mươi, khuôn mặt nhăn như trái táo, tóc búi cao đến mấy tấc, ghim tận ba cây cài tóc, cây nào cũng khảm nạm ngọc trân châu. Tay bà ấy chống gậy, đôi mắt bốc lửa từ tròng. Bà ấy giơ gậy sang bên, có con quỷ đầu trâu bước lại cầm lấy, đoạn chắp hai tay vái chào Lục Nghị. Cù Trọng Mậu thấy thần đã hiện, vội vã giải đàn, chắp tay cúi đầu chào rất sát, kế đứng lại sau lưng bên trái Lục Nghị. Nghị cũng vội thi lễ lại với bà ấy.
Bà già bước lại một cây kiệu lớn, trông lộ rõ uy nghi hơn các kiệu khác, trên rèm che có hoa văn quỷ khốc trông hết sức dữ tợn, lại có rồng uốn hai bên, rồi vén rèm che, mời người trong kiệu xuống. Người ấy liền từ kiệu bước xuống, Lục Nghị liền đó nhận ra ngay Vu Chấn, hết sức kinh ngạc.
Nghị và Chấn mặt đối mặt, bốn mắt nhìn nhau, chợt nhiên chỉ trong một ánh mắt mà chất chứa bao nhiêu những thứ diệu huyền của hóa công. Một kẻ sinh ra nhà quan, kẻ kia là nhà nông, kẻ nhà quan sa cơ phải đi xin ăn, kẻ nhà nông được trời thương mà làm địa chủ, kẻ xin ăn lại được tạo hóa đẩy đưa lên ngôi quyền thế, kẻ địa chủ lại bị nhân sinh hãm hại đến nỗi phải chịu ngục hình, tưởng như hai số phận không có lấy một điểm nào chung, trong phút chốc lại bỗng gặp cuộc hóa duyên, giao cắt nhau chỉ trong chốc nhát. Rồi khi kẻ âm người dương, tưởng sự giao cắt đó chỉ là một thoáng chọc ghẹo của con tạo cuộc đời, vậy mà giờ lại trùng phùng thế này. Nói ra bằng một ánh nhìn, một lần gặp gỡ, có thể khắc cốt ghi tâm, thương cảm lâu dài đến thế, người đời mới nghe tưởng là trò đùa, ấy là bởi họ chưa biết tới cái gọi là duyên tiền định. Chẳng đâu mà người trên dặm trường, ta mới gặp lần đầu còn chưa biết hay dở, đã có nét khó ưa, lại có người thân cận lâu dài rất mực yêu quý, cuối cùng lại hại ta chỉ vì khó ở, lại có kẻ ta mới nhìn thoáng một lần, đã biết đó là người theo ta đến trọn kiếp. Người ta bảo nhìn tướng người mà biết việc, nhưng tướng có như thế nào, chắc cũng không quá được cái sự đánh giá oan gia, Lục Nghị và Vu Chấn, nửa điểm chung cũng chẳng có, ai dám biết là một mối lâu bền từ ngày trai trẻ tới khi về già, lại tới khi âm dương cách trở, sau này lại còn tới đời con cháu, ngày sau còn là sự ảnh hưởng tới vạn mạng người, chẳng phải là như thế sao?
Vu Chấn lên tiếng nói:
– Đã lâu không gặp, quan đề đốc thế nào?
Nghị thấy Vu Chấn uy nghi, nhưng vốn là người có bản lĩnh, cũng không hề sợ hãi, chắp tay thưa:
– Nay tôi đã làm chức giám quân rồi.
Đoạn mình ngồi vào ngôi chủ, mời Vu Chấn ngồi ở ngôi khách đối diện bàn trà. Cù Trọng Mậu ngồi hầu bên tả Lục Nghị, bà già kỳ quái kia ngồi hầu bên hữu Vu Chấn, hai bên chia ngôi chủ khách xong xuôi, Nghị hỏi:
– Chẳng biết thức uống của ngài thế nào?
Chấn đáp:
– Trần sao thì âm vậy.
Nghị bèn sai rót trà, lại hỏi:
– Chẳng biết nay nên gọi ngài thế nào?
Chấn nói:
– Tôi lĩnh ấn phán quan dưới địa ngục*, tên họ không đổi.
Nghị chắp tay lạy nói:
– Tôi vẫn biết ngài là kẻ phi thường.
Chấn cười bảo rằng:
– Tôi không dám nhận thế, dù có phun mây nhả mù, thổi gió thét lửa, sao nữa cũng chỉ là một bóng ma vật vờ trong âm thế, chuyện trên cõi trần, vẫn còn phải nhờ cậy tới người sang. Trên hồng trần, cha mẹ thân thuộc đã chết, bạn hữu ngày xưa đã phản, kẻ thù ác nghiệt vẫn còn, Chấn tôi sống ba chục năm không nên được công tích gì, chỉ rượu chè chơi bời, hay bị xem là đứa vô dụng, bởi vậy mà không có lấy một người bạn nào thuộc hàng thanh cao. Người Chấn tôi kính trọng, cho vào hàng người “sang” tại thế, trên đời chỉ có mình ông quan “cậu” họ Lục thôi.
Lục Nghị nghe thế, đột nhiên mồ hôi chảy dài, dập đầu sát chiếu lạy, nói:
– Tôi có đức gì, mà được Vu đại nhân cho là người “sang”?
Vu Chấn lại nói:
– Người ta bảo, đời người chỉ cần giữ được một chữ “nghĩa”, thêm một chữ “đức” thì quỷ thần, cho tới trời người, đều đến mà lạy. Cái đức của ông đối với trăm họ, cho tới hàng sĩ tốt, quỷ thần đều biết đấy, không cần phải có người nói ra đâu. Tôi và ông không có nợ nhau, tôi đến với ông chỉ vì kính trọng thôi. Tôi chỉ có một đứa con trai muốn gửi gắm nơi ông dạy dỗ, nếu ông chê là hèn, thì tôi xin cáo từ.
Lục Nghị nói:
– Không phải như vậy. Chỉ là ngày trước tôi nghe chuyện con trai ngài bị hổ vồ ở công đường, tới nay tự nhiên lại đến, tôi không dám xét bừa nên phải lưu đó thăm dò. Nếu thật vậy, xin để lại tiện phủ, nhận làm con nuôi.
Chấn cười đáp:
– Nếu thế thì rất là yên tâm.
Đoạn toan đứng dậy bước đi, đột nhiên Cù Trọng Mậu nói:
– Tôi theo học nghề pháp, thường có sự mộng mị, lại có quỷ yêu tới nói này nói kia, mô tả linh tinh, không biết ra thế nào. Hôm nay nhờ lộc của chủ nhân, gặp được người chủ trì dưới cõi, dám xin đại nhân đây nói cho biết cảnh giới dưới ấy có được không?
Chấn ngồi lại xuống, nhìn Trọng Mậu chăm chú rồi nói:
– Ta nhận ra ông, chính là thầy pháp năm ấy cứu cho vợ ta bên bến sông. Rất là cảm kích. Ông đã già đi nhiều rồi.
Đoạn dâng lên chén rượu nhạt. Trọng Mậu rất mừng, vội tiếp đáp rượu.
Chấn nói:
– Người ta chết đi, lòng vòng các ngục, rồi lại sống lại trở về không ít, đó là bởi vì việc quan sai dưới đại phủ đôi lúc có chỗ xét nét chép lầm, khiến người ta chưa tới lúc chết mà bị đoản thọ, về sau người ta kiện nên phải chữa lại sổ sách mà cho sống lại. Những người ấy mô tả dưới địa ngục cũng thật hay, nhưng cũng chưa đúng, bởi họ đi chưa hết. Ta coi giữ việc trọng hình, vì các ông, sẽ nói cho mà biết, để các ông ghi chép tới đời sau. Thế gian có mười hạng, gọi là Thập giới, trong đó có bốn giới thánh, gọi là Tứ Thánh, và sáu giới phàm, gọi là Lục phàm (Lục đạo), Tứ thánh là các vị Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, ấy là cõi riêng, người thường khó biết, trong đó trừ Phật đã dứt hết vòng nghiệp, không còn chịu ràng buộc, ba hàng thánh còn lại chỉ có nghiệp lực là dìu dắt được mà thôi, còn thì trời người đều không thể khống chế các vị thánh giả ấy. Kế tới Phàm phu Lục đạo lại chia thành ba tầng, gọi là tam cõi, đó là thiên gian, nhân gian và âm gian, mỗi cõi có hai hạng, thiên gian có trời, A Tu La, nhân gian có người, súc sinh, âm gian có ngạ quỷ, địa ngục, bọn trong hàng Lục đạo này còn vướng trong luân hồi nhiều kiếp mới dứt, riêng ba hạng cuối là súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, gọi là “tam ác đạo”, thì địa ngục là ác đạo cùng cực, nơi ấy hình phạt vô số, theo phép trị rất nghiêm, phải sai quan cắt đặt. Người được cắt đặt coi sóc việc ở địa ngục gọi là Diêm Vương, vị ấy xét công định tội công minh vong hồn người. Nhưng người chết ức vạn, Diêm vương phải trong điện mà trông giữ, do đó việc bên ngoài như đi bắt tội, khảo hạch, đều sai bọn quỷ tốt giúp việc, trong số ấy kẻ xét các công việc người chết trình lên Diêm vương, chức cao có Phán quan, kế là hình sĩ, tú minh, kế đến biên thủ, thư ký, chế định cũng không khác trần gian là mấy. Những người làm công vụ dưới địa ngục, đều là người đã chết.
Chấn nói xong, ngừng hơi uống trà. Bọn người nghe đều run sợ. Kế Phán quan lại nói:
– Ở âm phủ có mười điện, đứng đầu mỗi điện là một vị Diêm vương đảm nhận việc xét công định tội. Các điện ấy là: Thứ nhất, Nhất điện, coi bởi Tần Quảng Vương, quản việc khỏe mạnh, ốm đau, cát hung, sinh tử của trần gian. Người làm điều thiện ít, điều ác nhiều thì được áp giải đến đài cao, phía bên trái điện, gọi là đài gương “nghiệt cảnh đài”, để nhìn vào đó liền thấy rõ mọi việc tốt xấu hồi còn tại thế, sau đó giải đến điện thứ hai để vào ngục chịu khổ; kế tới Nhị điện, coi bởi Sở Giang Vương. Vị này trông coi địa ngục Hoạt Đại, có mười sáu tiểu địa ngục là ngục mây đè, phân thối, bị đâm, bỏ đói, bỏ khát, nấu máu, nấu một chảo đồng, nấu nhiều chảo đồng, bỏ vô cối xay sắt, đong lường, gà mổ, ao tro, chặt khúc, gươm lá đâm, chó sói ăn thịt, bỏ vào ao lạnh giá…Những ai lúc còn sống trên thế gian làm điều tổn thương đến thân thể người khác, gian dâm, sát sinh đều được đưa vào ngục này và các tiểu ngục để chịu khổ. Khi hết kỳ hạn liền được đưa đến ngục thứ ba để định đoạt tiếp hình phạt. Kế đó, Tam điện, coi bởi Tống Đế Vương. Vị này coi Hắc Thằng Đại Địa Ngục, cũng có mười sáu tiểu ngục là nước mặn, bị gông xiềng, đục sườn, nạo mặt, nạo mỡ, móc gan tim, móc mắt, lột da, căng da, cưa cẳng, rút móng, hút huyết, treo ngược, sả vai, ăn giòi, đập đầu gối, mổ tim. Ai khi sống trên trần gian mà ngỗ ngược, hỗn láo với bề trên, xúi bẩy kiện tụng, gây sự bất hòa… phải vào ngục này và các tiểu ngục chịu khổ, hết kỳ hạn đưa đến điện thứ tư. Kế đến, Tứ điện, coi bởi Ngũ Quan Vương. Vị này quản địa ngục Hợp Đại, cũng có mười sáu tiểu ngục là xiên thịt, xối nước sôi, vả sưng mặt, chặt gân xương, khứa vai lột da, khoan da thịt, chim trĩ mổ, mặc áo sắt, cây, đá dằn, khoét mắt, tro lấp miệng, đổ thuốc độc, trượt nhớt té, xâm miệng, chôn trong đá vụn…. Những ai trốn nộp tô, thuế cho nhà nước, mua gian bán lận đều bị đưa vào ngục này và các ngục nhỏ chịu khổ, hết kỳ hạn được đưa qua điện thứ năm. Kế đó, Ngũ điện, coi bởi Diêm La Thiên Tử, vị này có lòng từ bi, hay xét xử lại cho kẻ lương thiện bị oan khuất, nên trông coi quản đại địa ngục Khiếu Hoán và mười sáu chu tâm tiểu ngục. Những ai đến điện này đều được dẫn đến đài Vọng Hương để nghe và thấy tất cả những nghiệt ách đã gây ra trên trần gian, sau đó được đưa vào địa ngục rồi vào chu tâm tiểu ngục, mổ bụng moi tim, ruột ném cho chó ăn. Hết kỳ hạn lại được đưa xuống điện thứ sáu. Kế đó, Lục điện, coi bởi Biện Thành Vương. Vị này coi thành Uổng Tử và mười sáu tiểu địa ngục là quỳ chông, nhốt trong hầm phân, thiến dái, quết thịt, trâu báng, ngựa đạp, bửa sọ… Những ai khi sống trên thế gian oán trời trách đất, cứ khóc lóc, trộm cắp, đầu cơ tích trữ… đưa vào ngục này và tiểu ngục để chịu khổ hơn nữa. Hết kỳ hạn được đưa đến điện thứ bảy. Kế đó, Thất điện, coi bởi Thái Sơn Vương, vị ấy quản địa ngục Nhiệt Não, có mười sáu tiểu ngục. Ai khi sống trên trần gian đào mồ, trộm mả, lấy hài cốt để làm thuốc, rời bỏ người thân thích, đưa vào ngục này và các tiểu ngục. Hết kỳ hạn giải đến điện thứ tám. Kế đó, Bát điện, coi bởi Đô Thị Vương, vị ấy quản đại địa ngục Đại Nhiệt Não, có mười sáu tiểu ngục. Những ai sống trên trần gian bất hiếu khiến cha mẹ đẻ, cha mẹ chồng, cha mẹ vợ phải buồn phiền, bực tức khi chết sẽ bị ném vào ngục này và các tiểu ngục. Kẻ bất hiếu chịu hết mọi hình thức đau khổ, giải đến điện thứ mười, thay đổi hình dạng vĩnh viễn làm loài súc sinh. Kế đó, Cửu điện, coi bởi Bình Đẳng Vương, vị ấy quản Thiết Võng A Tỳ và mười sáu tiểu ngục ở Thành Phong Đô. Ai sinh sống trên thế gian mà giết người, đốt nhà, bị chém nơi pháp trường đều giải đến điện này, bắt ôm cột đồng trống rỗng và trói chân tay lại, đốt lửa ống đồng cho tim gan thiêu trụi và chịu nhiều cực hình khác, sau đó lần lượt đầu thai vào những nơi kẻ đó đã làm hại cho trả nghiệp, xong bị đày đọa, chết đi rồi, tiếp tục giải đến điện thứ mười. Cuối cùng làThập điện, được coi bởi Chuyển Luân Vương, vị này giải tội nhân đến nơi quỷ hồn để làm rõ thiện ác, rồi cho lên đầu thai. Nam hay nữ, sống lâu hay chết yểu, giàu sang phú quý hay nghèo hèn, lần lượt được ghi vào danh sách. Những con quỷ mà có nghiệp ác, cái thai bị lạnh đi, khiến cho nó sáng sinh ra chiều đã chết. Hết kỳ hạn trở lại làm người, đầu thai vào nơi sống rất man rợ, bẩn thỉu. Các tội nhân sau khi chịu đủ các hình thức xử phạt ở các điện, được giải đến điện Thập điện cho đầu thai. Những ai được đầu thai đều được giao cho Thần Mạnh Bà đến Thù Vong Đài cho ăn cháo lú, để quên hết những chuyện của kiếp trước. Nếu ai không chịu uống thì giá đao sẽ hiện lên dưới chân, quấn chặt lấy chân, bên trên dùng ống đồng đút vào trong cổ họng bắt uống một cách đau đớn khổ sở. Ta là phán quan của Nhị Điện, thủ hạ của Sở Giang Vương, chuyên lo việc coi xét các kẻ có sự ác nghiệp liên quan tới hình khốc, bất hiếu, gian dâm, và ghi biên chép tội ác của chúng, cũng như phải thanh tra, chỉnh sửa lại những án xét sai, những vong linh khiếu kiện liên quan tới các tội ấy, tới khi nào thời điểm chín muồi chúng phải thọ tử, thì ta giao sổ biên chép ấy tới phán quan của Thập điện, họ sẽ sai Tột Khốc đi bắt bọn chúng.
Lục Nghị và Cù Trọng Mậu đều là bọn người có bản lĩnh cao cường trong vòng trời đất, một kẻ điều binh khiển tướng trong hàng quân ngũ, ban họa giáng phúc ở chỗ bách dân đã lâu, kẻ kia thì tu luyện đạo thần tiên, trừ yêu tróc quỷ, yêu quái phải tới lạy đã nhiều, thế nhưng đều chỉ là người ở nhân gian, tới nay nghe chuyện ở âm gian, biết rằng việc thiện ác được tra cứu bởi nhiều cấp bậc, thật khó mà lọt được, hết thảy đều khiến chúng sợ hãi rùng mình. Đó đều là những việc mà sức người trên nhân gian không thể liệu tính nổi. Kể từ đó về sau làm gì cũng biết có quỷ thần trên đầu, nhất nhất các việc đều theo khuôn phép, biết răn mình sợ hãi, biết phòng nghiệp mà giữ thân, đều trở thành những người xuất thế được lưu tiếng thơm muôn thuở dưới triều Trần.