Vu gia liệt truyện

Chương 3



Chấn dặn riêng cha mẹ không đậy nắp quan, cũng không cho người tới viếng nữa, rồi ai hỏi gì cũng không nói, đêm ấy lẳng lặng rời nhà đi.
Chấn đi không kể ngày đêm tới sông Quy Hóa. Khi tới nơi, dùng tiền mua hai chum lớn, lại thuê bốn người phu, múc đầy nước sông Quy Hóa đổ vào đó, để ở bên sông chờ thuê xe ngựa chở về. Kế đó Chấn lập đàn khấn khứa bên sông, cầu cho vợ cải tử hoàn sinh. Vừa khấn vừa nhớ vợ, cứ khóc lóc mãi không thôi, lời lẽ vô cùng bi ai thống thiết.
Chợt đột nhiên sương khói bốc lên mịt mù cả khúc sông, thuyền neo đậu cách một tầm chèo, đều không trông thấy mặt. Trong làn khói sương mờ ảo dưới bờ sông chợt dần hiện ra một bóng người, lộ rõ đó chính là người mẹ già của Tứ Nương. Bà tiến lại gần Chấn, nói:
– Con rể về thăm nhà ta đấy ư?
Chấn lúc bấy giờ không còn thấy sợ, chỉ thấy bi ai, thụp xuống mà lạy như tế sao, nói:
– Con đã muốn về thăm nhiều phen, nhưng vợ không cho, chứ không phải có ý bỏ bê mẹ.
Bà già gật đầu, đoạn hỏi con gái ở đâu, Chấn khóc kể lại hết sự việc.
Bà già nghe xong, buồn rầu nói:
– Âm dương khác khí, đâu thể hợp sinh được? Đã dặn kĩ như thế còn cố làm, chẳng là chuốc lấy vạ tự diệt cho tán phách ư?
Bấy giờ mới kể cho Chấn biết việc.
Nguyên trên khúc sông Quy Hóa này, có một kẻ đã chết từ đâu thời Ngô Vương, đã được mấy trăm năm, âm khí mạnh mẽ không thể tiêu tán đầu sinh, bèn ở lại dưới sông làm oan hồn quỷ khốc, cứ rình chờ có người qua đò thì bắt lấy thế mạng mới có thể thoát đi, dân trong vùng gọi là Ma Da. Cứ vậy dìm đò người ta mà giết bắt lấy hồn xác, không để lại hình tích, lại khéo chôn dấu hành tung, vài năm mới lấy một người, do đó dân vùng đều không biết tồn tại thứ ấy. Khi lấy đủ nghìn mạng thì kẻ đó thoát hồn, mạng cuối cùng ở lại giữ sông, gọi là Ma Da, vẫn theo lệ cũ bắt hồn thế xác. Các Ma Da về sau bị bắt đều y như phép đó, vài năm thì lấy một người thế rồi đi đầu sinh. Kế cho tới người ở làng gần sông có một cô gái trẻ, tên là Kiều Nương, đêm ấy đi qua đò bị Ma Da kéo xuống sông sát hại, oan hồn ở lại trên sông Quy Hóa. Ma Da nói với Kiều Nương:
– Ta giết ngươi, chẳng thù oán gì, cũng chỉ vì việc phải thế, mấy năm trước ta cũng bị giết như thế. Nay ta đi, ngươi ở lại trông nom gìn giữ nơi đây, chờ cho đủ ba năm, hãy kén bắt một kẻ khác làm Ma Da thế mạng, thì có thể độ sinh. Nếu xuống âm ty, chớ có oán ta làm chi.
Kiều Nương khóc lạy nói với Ma Da:
– Xin ngài cứ hóa sinh, tôi đây chẳng thể nào đang tâm lấy mạng người khác, đành phải ở lại sông này cho tới nghìn thu, chờ khi có người thầy pháp cao tay, hoặc bậc đại sư bi nhẫn đi qua mà hóa độ. Còn nếu không có, đành ở lại sông này mãi mãi.
Ma Da nghe thế thật là cảm động, không nỡ đi nữa, bèn ở lại, kết thành mẹ con cùng với Kiều Nương, cả hai cùng ở bên sông. Cứ thế đã hơn hai chục năm, người làng chẳng còn biết chuyện, cũng không còn tai nạn trên sông do đó không ai biết đến hình tích của việc. Oan hồn ấy, chính là người mẹ, còn Kiều Nương, chính là Tứ Nương sau này vậy.
Rồi vào sáu năm trước, mẹ con đang cùng lang thang trên sông, chợt gặp hai vị thần nhân. Một vị người nam, râu tóc bạc phơ, tiên phong đạo cốt, tay cầm phất trần, cưỡi trên con hạc trắng lớn bay tới. Vị thứ hai người nữ, mặc áo choàng màu tía, cổ đeo anh lạc, hai bên có hai thị đồng, rẽ mây mà hiện.
Cả hai sà xuống khúc sông, hiện lên trong hang ổ. Mẹ con Ma Da kinh sợ cứ thụp lạy mãi. Vị tiên cô người nữ nói:
– Xét ra Ma Da thọ trên trần thế đều không quá năm năm, nếu không vì bị thầy pháp trừ yểm, tức tìm được hình nhân thế mạng. Riêng có chúng bay, ở đến mấy chục năm, ta là tiên trên cõi trời Thiên Thanh, hiệu là Minh Nguyệt Vũ, tới để xét đoán việc lạ kì, xem chúng bay vì đâu mà thế.
Vị tiên râu tóc bạc phơ kia lại chỉ vào Tứ Nương mà nói:
– Xem chừng đây là chiếc “vảy rồng”, có hữu ích cho đời chăng? Vậy thì nay ở yên khúc sông này, chờ đi gả chồng, ta sẽ giúp việc đó.
Nói rồi người tiên ấy rút từ chiếc phất trần ra một sợi tơ trắng muốt ném xuống dưới đầu Tứ Nương, nói:
– Kẻ nào được duyên, có thể cùng theo.
Nói dứt lờn, hai vị tiên ấy cùng nhìn nhau cười, rồi chắp tay lầm rầm niệm chú, chỉ trong một khắc liền cùng tan biến.
Kể từ đó trong lòng Tứ Nương sinh ra sự động đậy trông ngóng, Ma Da mẹ thấy con suốt ngày tơ tưởng, nói:
– Lời của những người đó, có đâu tin được? Số kiếp làm Ma Da chỉ có thể bám lấy khúc sông, chẳng thể đi đâu, còn trông mong gì việc “duyên” đó.
Tứ Nương nói:
– Lời của người tiên, đâu thể xem thường.
Rồi Tứ Nương thường xuyên ẩn hiện trên khúc sông ấy, nhưng không hại người, chỉ đi dò xét loanh quanh, mà chẳng thấy điềm gì kì lạ. Cho tới một ngày nọ, lại làm phép phun mây nhả mù, hiện lên trong đêm khuya, đi lòng vòng quanh sông xem xét, đến một đoạn sông nọ, chợt thấy sợi tơ mảnh sáng rực lên rất kì lạ. Tứ Nương mạnh dạn quấn sợi tơ vào cổ tay, bước thử lên bờ, quả nhiên thấy lên được mà không bị đau đớn. Tứ Nương mừng lắm, hết sức đi quanh kiếm lùng, thì bến sông ấy chẳng có một người nào, chỉ có một túp lều dựng tạm, bên trong có một kẻ nam nhân đang ngủ. Tứ Nương chắp tay khấn vái, nói:
– Có phải là “duyên” của con, vì bởi trời thương cho cái đức mà không nỡ đoạn tuyệt con, thì xin cho sông nước lạnh giá này, được ấm êm hơi lửa, xin cho hồn tàn tro nguội này, được nồng ấm tình đầu.
Đoạn mạnh dạn bay tới, bước vào lều trêu gọi, người ấy quả nhiên đi theo. Tứ Nương lại chìm vào sông, sợi tơ phát sáng lên, hiện thành đốm lửa trên đò, người ấy cứ theo hiệu lửa mà đi, cuối cùng lên đò, cùng nhau ân ái.
Rồi người ấy đi chịu tang ở xa, khi đã đi rồi sợi tơ không phát sáng thêm một lần nào nữa, Tứ Nương cũng không thể còn bước lên bờ được nữa, lại trở thành Ma Da như trước, chẳng thể rời khỏi khúc sông đã chết, chỉ biết ngày đêm trông ngóng, khấn nguyện cho người ấy về lại để cởi trói kiếp vong hồn.
Tứ Nương đâm ra ngẩn ngơ bồn chồn, mẹ biết lo lắm, nói:
– Nếu kẻ đó không quay lại, mẹ con ta cứ ở với nhau mãi trên sông này, chẳng phải là tốt hay sao? Vì sao con phải u sầu?
Tứ Nương nói:
– Đã có thánh chỉ của bậc thần nhân, nếu con thoát được nghiệp chướng, tới ngày nào đó có thể cứu rỗi được cho mẹ. Còn bằng mẹ con ta cùng lập lời nguyện không hại người mà cứ ở sông mãi, thì chẳng lẽ nghìn năm cứ phải làm kiếp u hồn?
Mẹ nói:
– Sợi tơ là của con, cả khi nó phát sáng, ta cũng chẳng thể lên bờ. Số ta đã phải chết rục ở sông này, nếu con đi, ta chỉ còn biết một mình.
Nói rồi hết sức buồn thương, Tứ Nương cũng động lòng cứ khóc mãi nhưng không biết làm sao cả.
Người ấy chịu tang trở về, đi ngang qua sông, sợi tơ lại liền phát sáng hóa thành tàn lửa. Tứ Nương lại lên được bờ, liền bám theo lều người ấy mà quở trách sự bội ước, người ấy bèn trở lại sông tìm. Tứ Nương dẫn người ấy về ra mắt mẹ, người mẹ biết đã đến lúc Tứ Nương phải đi, trong lòng chẳng được vui, nhưng vì nghĩ cho con nên gạt lệ, quay mặt vào vách tiễn con đi. Tứ Nương hết sức cầu xin mẹ cùng theo lên bờ nhưng Ma Da biết mệnh mình không thể đi, cũng không đi nữa, chỉ lén dặn rằng:
– Người và ma không cùng khí âm dương, nếu giao hoan về lâu dài, tất là hại người, nếu sinh con đẻ cái, tất là hại ma, hãy ghi nhớ lấy.
Tứ Nương khóc lạy mẹ rồi lên đường, đi theo người ấy về làm dâu, còn Ma Da thì ở lại sông, lẻ bóng heo hút chẳng có nhang khói, sống chịu cảnh oan hồn dày vò, nhưng cũng chẳng bắt thêm người nào.
Người dẫn Tứ Nương đi, chính là Chấn vậy.
Chấn nghe xong câu chuyện Ma Da kể thì thụp xuống khóc lóc rằng:
– Vợ con vì làm cho tròn cái tình với con, đã quyết sinh đẻ, vì thế mà tới nay bị hại.
Hai mẹ con đều khóc.

Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.