Kế đó Chấn kể lại việc vị đạo sĩ tới nói, bà già thất kinh hỏi:
– Người ấy râu tóc bạc trắng như cước, tay cầm phất trần?
– Hẳn là người trao cho con ta sợi tơ năm xưa, giọt nước vẩy lên cổ, chắc là nước tiên vẩy vào mang cá để con ta khỏi chết cạn. Hãy y theo lời người ấy trở về cho mau, nếu mà may cứu được, ơn của vị tiên ông thật là sâu, cúng bái cho cẩn thận rồi báo cho ta một tiếng làm mừng.
Nói rồi giục rất gấp, Chấn bèn lập tức mang nước trở về.
Khi về tới nhà đã là tám ngày, người nhà theo lời không dám đậy nắp quan. Chấn ở trước quan tài, thấy thi hài Tứ Nương không hề tan rã, mặt mũi tay chân đều còn nguyên vẹn nhưng trắng bệch, trên khắp làn da nổi ra màng bọc như cái bóng cá phủ lấy thân ảnh mờ mờ.
Chấn đứng trước quan, đốt hương thơm lên, khấn nói:
– Cái duyên nghĩa cầm sắt*, không vì khác loài mà chối bỏ phụ bạc. Nay nếu nàng còn thương, xin trở về cho cha con đỡ cảnh mồ côi, bằng không về được, thì xin báo mộng cho điều nên làm.
(*duyên cầm sắt: Đàn cầm và đàn sắt, là hai loại nhạc cụ thường chơi chung với nhau, âm điệu hòa ra tiết tấu êm đềm, hay nói vợ chồng có nghĩa cầm sắt, chỉ rằng sự hòa thuận êm ái không rời).
Nói rồi sai bịt thật chặt xung quanh quan tài, tự mình cởi bỏ hết y phục người chết, đổ đầy nước sông vào trong quan tài, rồi tự thân túc trực bên quan, ngày hai lần thắp hương, không rời quan nửa bước.
Ngày đầu tiên thấy da thịt Tứ Nương bở ra, màu nước sông ngả dần sang vàng.
Đến ngày thứ hai thì da thịt se lại, nước dần trong trẻo.
Tới ngày thứ ba nhìn lại thì nước đã hút vơi đi quá nửa ngấm vào xác, da thịt bắt đầu hồng hào.
Cứ vậy lần lần, tới đủ bảy ngày thì bắt đầu mở mắt hấp háy, nước trong quan đã cạn sạch, Tứ Nương bèn sống lại.
Thấy rằng con người đến số phải chết thì chết, chết trên sông hóa quỷ, mà chẳng hại người, thì rồi làm ma mà có con có cái, đúng với cả mẹ Ma Da vậy. Tứ Nương chết rồi lại được sống mà theo hầu người thoát nơi chướng khí, vì sinh đứa hài tử chấp nhận bỏ mạng, tới khi mạng chung lại được thần nhân cứu cho sống lại, người mẹ Chấn mong có đứa cháu, nhưng chẳng nỡ ép uổng con dâu, cuối cùng vẫn có cháu, Chấn một đời lương thiện, không ngại được tiếng, được cả vợ lẫn con, đó chẳng phải là nhân trời báo lành sao?
Trần ai lắm việc truân chuyên,
Ma Da đã bắt, vì duyên lại dừng
Bến sông neo lạnh đã từng
Nhờ tiên giáng phép lại mừng giàu sang
Mẹ nuôi thương cảnh lỡ làng
Mẹ chồng xót hiếu, cưu mang thật tình
Họa giáng xuống bất thình lình
Nhờ trên ban phúc chữ tình còn nguyên.
Tứ Nương sống lại rồi, khóc thưa thật các việc với chồng, rằng:
– Em chẳng phải là người, chỉ vì có giấc mộng lạ, mà đi theo hầu nghĩa vợ chồng.
– Việc đó đã biết. Khi gặp bên sông, ta đã ngờ chẳng phải người, nhưng tấm lòng của người ta bao dung rộng lớn có thể đỡ ngã, vớt chìm, cứu được người sống, cưu mang người chết nên không để tâm. Nay đã được vẹn đầy, vậy trước ra lạy cha mẹ, thăm con nhỏ, sau về sông Quy Hóa, đốt hương lạy mẹ.
Chấn bèn dẫn vợ ra lạy. Cha mẹ chồng nghe chuyện thất kinh hồn vía, bấy giờ mới biết là ma, trong lòng hết sức kinh sợ, làm gì cũng dè chừng, ăn thì vẫn ngồi chung nhưng khi có Tứ Nương, không dám nằm ngủ say. Tứ Nương biết chuyện đó nhưng vẫn một lòng tôn thờ, dần dà cha mẹ biết không có lòng khác, mới dần vững dạ.
Lại nói Tứ Nương đi vào thăm con, tới cửa thì chần chừ không bước tới, Chấn hỏi tại sao, nàng đáp:
– Trong phòng có kiếm khí thật là sắc bén.
Chấn kể lại việc đạo sĩ cho kiếm, rồi toan bế con ra khỏi kiếm cho vợ gặp, nàng lại nói:
– Đứa bé hai khí hòa trộn mà thành, kiếm ấy để giữ cho được làm người, nếu rời xa kiếm chắc phải yểu mạng. Chờ tới khi khôn lớn cứng cáp, tự mình cường mạnh, mẹ con lúc ấy hẵng gặp cũng chưa muộn.
Chấn bèn nghe theo, từ đó mẹ con không được nhìn nhau, cho đứa bé bú mớm, đều gọi tới bà đỡ.
Chấn hỏi việc đặt tên, cha mẹ bảo Tứ Nương đặt, nàng bèn đặt tên là Đạt.
Kế được mấy tuần, hai vợ chồng xin phép cha mẹ, sửa soạn về sông thăm mẹ vợ. Đến khi về tới sông Quy Hóa, Tứ Nương chợt ở bên bờ sông khóc lớn ròng trong ba ngày, nói:
Rồi lập bàn thờ lớn bên sông mà khấn khứa. Đêm đó Chấn nằm mơ thấy mẹ vợ về, nói:
– Hôm trước có vị quan sai lớn mang kiệu rồng đi tới, nói số mẹ phải ở sông này đủ hai trăm năm rồi về phủ thọ hình, nhưng do mẹ làm được việc đức, nên giảm nhẹ án cho, không còn phải giam cầm ở sông này nữa, lập tức dẫn đi thọ hình, mười lăm năm sau cho được tái sinh vào nhà họ Lệ ở Thăng Long, các con nên biết như thế. Không có cái tình máu mủ gì, nhưng nếu thương cho cái ơn tác hợp năm xưa, vậy xin rời nắm cốt của mẹ mà lễ cúng, trì đủ một trăm ngày, cho mẹ nhanh được thoát tội, vậy mẹ biết ơn rất nhiều.
Nói rồi đi mất. Chấn tỉnh dậy kể với vợ, thì vợ cũng mơ như thế. Tứ Nương chờ đêm xuống thì gọi chồng ra bờ sông, kế bèn lấy từ búi tóc ra một sợi tóc đen nhánh, đoạn niệm chú thổi vào đó, sợi tóc liền biến thành một sợi tơ bạc trắng như cước, kế đó lửa thổi bùng lên, con đò năm xưa từ từ hiện lên giữa màn nước, Tứ Nương dẫn Chấn lên đò, đò liền từ từ trôi qua bờ sông bên kia. Kế hai người dắt tay nhau đi bộ, Chấn nhớ ra ấy chính là con đường ngày xưa Tứ Nương dẫn về thưa chuyện với mẹ hỏi cưới, chỉ khác rằng ban ngày tìm không ra con đường ấy.
Kế đó vợ chồng đi mãi, thì tới làng năm xưa, nhưng mà nhà cửa chẳng còn thấy đâu cả, chỉ thấy một bãi đất hoang lạnh, mồ mả cũng không có. Tứ Nương nói:
– Năm xưa mẹ bị bắt làm Ma Da, thây bị đem dìm xuống hồ, xương cốt đều ở đó chứ không có mồ mả, chính là nơi này. Nếu chàng thương tình thì giúp rời nắm cốt ấy.
Chấn gật đầu, Tứ Nương trỏ vào một phiến đá lớn, rồi buộc sợi tơ trắng lên phiến đá đó, bảo Chấn nhấc lên, kế lại trỏ tay bảo Chấn đặt vào chỗ nọ, Chấn làm theo. Tới khi làm xong, bỗng thấy không khí xung quanh đều hóa thành nước, xộc thẳng cả vào mồm mũi miệng, Chấn chết ngạt không sao thở được, hai mắt trợn trừng bấu chặt lấy tay Tứ Nương.
Lúc bấy giờ choàng tỉnh dậy, thấy đang nằm ở trong lều, tay vẫn còn nắm chặt tay Tứ Nương, thì ra vừa trôi qua giấc mộng.
Sáng hôm sau Tứ Nương dẫn Chấn tới một khúc sông cách đó hơn mười dặm, trỏ xuống dưới, nói:
Chấn hiểu ý cởi quần áo lặn xuống dưới lần tìm, đột nhiên thấy có dấu vết sáng rực, nhìn ra thì vết sáng ấy màu đỏ, hình dáng sợi dây quấn quanh một phiến đá lớn. Chấn đẩy đá ra, rồi đào đáy sông ở đó, quả thấy cốt trắng. Cứ nhặt được khúc xương, lại ngoi lên thở, cứ vậy tới hai chục lượt, mới mang đủ được cốt người lên bờ. Xương ấy dưới sông này đã mấy chục năm, vẫn không hề tan mục.
Vợ chồng xếp lại xương cốt, rồi thuê người xem đất, đào huyệt, táng vào đó, kế dựng nhà bên sông, lập bài vị, ngày đêm cúng bái cho đủ trăm ngày, để hồn được siêu sinh.
Những người bản địa thấy có dựng nhà, tới hỏi han chuyện, họ nói độ sinh cho Ma Da, mọi người thấy là điều lợi nên cũng không ai hỏi gì.
Đến đủ một trăm ngày, Chấn mộng thấy có hồn ma tới vái tạ, nói:
– Mẹ xin đội ơn, chia biệt tại đây, nếu còn duyên thì mười lăm năm sau xin gặp lại các con để trả ơn nghĩa.
Nói rồi tan đi hẳn, khúc sông ấy từ ngày đó cũng không còn có Ma Da. Vợ chồng lên đường trở về nhà.
Người quân tử, gây ơn độ sinh quỷ
Ma nhân nghĩa, lấy phúc báo đáp người
Tip: You can use left, right, A and D
keyboard keys to browse between chapters.