Long Quân hóa thành con Thủy Long trắng muốt, bay thẳng lên cõi trời sắc giới, tới tầng trời Thiên Thanh, hỏi cung trời thứ mười bốn là Minh Nguyệt Thiên Thanh xin cho gặp Minh Nguyệt Vũ.
Nguyệt Vũ ra đón, Long Quân vội quỳ xuống khóc mà rằng:
– Cô phải giúp cháu phen này nữa mới được.
Đoạn Lạc Long Quân kể lại hết nạn Giao Long cho Minh Nguyệt Vũ nghe, rồi căm giận mà nói:
– Nay tới đây cậy xin cô cho mượn ít quỷ thần, cháu chặt đầu con Giao Long đó.
Nguyệt Vũ nói:
– Để đi xem nó thế nào.
…
Thế là Minh Nguyệt Vũ và Lạc Long Quân cùng rẽ mây đi thẳng tới Biển Đông xanh thăm dò. Tới ngày hôm sau thì Giao Long lại tới, Nguyệt Vũ dùng phép thần thông, bọc cả mấy đảo người dân Man lại, các tiên của Minh Nguyệt Thiên Thanh cùng hợp lực với bà. Thế rồi hai cô cháu cùng bay lên đánh với Giao Long. Nguyệt Vũ dùng sợi vải dài bọc theo áo tiên, trói tay chân nó lại, Long Quân dùng Cửu Long kiếm bổ lên một nhát, chín con rồng cùng từ kiếm bay ra, xé con Giao Long ra thành chín khúc.
Lạ thay chín khúc thân đó lại từ từ liền lại với nhau. Giao Long lại mạnh lên, gầm một tiếng kinh thiên động địa. Nguyệt Vũ dùng nhiều kết giới một lúc để bọc cứu cho các đảo dân Man nên bị yếu đi, Giao Long lao thẳng xuống húc đầu vào một đảo, kết giới ở đó có vết rạn nứt ra, Nguyệt Vũ nói:
– Không ổn rồi, rút thôi đã.
Thế là hai người cùng quay trở về. Giao Long thấy thế, cũng bỏ đi, sóng triều lại từ từ rút.
…
Về rồi cùng họp bàn, Nguyệt Vũ nói:
– Loài này là thủy quái đến từ biển nước sâu, biển nước sâu lại có từ xa xưa, nơi sâu của nó thì sâu hơn cả tầng ngục phủ diêm la, nơi rộng của nó thì tầng trời cũng không rộng bằng. Quái vật trú dưới làn nước đen đều là nòi có từ Thượng Cổ, vào cái thuở Nữ Oa vá trời, uy lực sức mạnh của chúng chả biết đàng nào mà lần. Nước Bắc Trung Nguyên nhiều thần thánh đến thế mà vẫn thường xuyên đối phó với nạn quái vật từ biển nước sâu. Năm ngoái cũng có con cá Kiếm lớn đánh vào đảo Uyển Luân (nay thuộc quần đảo Vân Nam), giết mất năm vị thần ở đất Trung Nguyên. Năm trước nữa lại có con kình ở biển nước sâu đánh vào đất Thủy Phúc (vùng ben biển đất Hồng Kong ngày nay), dân chài chết có đến vài vạn. Sau chúng nó đều tự đi chứ cũng có bắt được đâu? Khi xưa vũ trụ thành hình, thiên hạ từ vô cực mà đến độc cực, rồi nhân đôi thành lưỡng cực, sinh ra từ cái cực hư vô ấy, chính là bọn sinh vật thần thoại này, cả đến thần linh như ta và ngươi, chắc đều khó bắt.
Long Quân nói:
– Vậy giờ phải làm thế nào?
Nguyệt Vũ đáp:
– Mày có thấy cái Lục Lạc nó đeo ở cổ không? Đó là pháp khí nhà Phật. Nó liền thân lại nhờ pháp khí đó. Cô thấy nó có cả Phật tính, xem ra con này không phải quái vật mà thánh thần trị được, đành nhờ tới người của Phật môn thôi.
Nguyệt Vũ bèn trở về cõi trời sắc giới, lập đàn kêu cầu tới nước Phật.
Vị Cổ Phật ở Tây Phương bấy giờ là Phật Nhiên Đăng, nghe được tiếng kêu cầu từ phương Nam vọng lại, bèn điểm Chư Bồ Tát và Chư La Hán. Ngài Hàng Long La Hán nói:
– Bạch Đức Thế Tôn, Bồ Tát Phổ Hiền đang ngao du ở nước Hồng Bàng, xin nhờ tới ngài luôn cho tiện.
Như Lai bèn truyền gọi tới Bồ Tát Phổ Hiền.
…
Bấy giờ Bồ Tát Phổ Hiền đang dạo chơi ở dưới huỳnh tuyền, nghỉ ngơi thọ trai tại Đại Địa Âm Tự của Bồ Tát Địa Tạng thì nghe được tiếng truyền của Như Lai, bèn cáo phép rời đi. Địa Tạng Vương Bồ Tát nói:
– Để tôi đi cùng xem thế nào.
Vậy là hai vị Bồ tát cùng đi tới nước Hồng Bàng.
Nguyệt Vũ và Long Quân ra yết kiến, lạy tâu lại các việc, Bồ Tát Phổ Hiền nghe xong thì nói:
– Năm ngoái tôi đi qua nước Tây Tạng, rồi đi thăm Nam Hải Bồ Tát. Khi đi qua biển nước sâu thì làm rớt mất cái chuỗi Anh Lạc xuống biển. Nghe kể như thế có lẽ con Giao Long này nhặt được, rồi lấy làm phép tu, bây giờ đắc đạo thì vào đất liền quấy phá. Nếu thế thì để tôi dẹp nó cho quý quốc.
Nói rồi các Bồ tát cùng đi ra bể.
…
Bấy giờ chờ cho tới hai ngày sau, Giao Long lại đến phá, nước triều dâng lên cuồn cuộn. Địa Tạng Bồ Tát nói:
– Để chúng tôi lên bắt, nhà vua hãy lấy mạng nó đi.
Rồi Địa Tạng Vương Bồ Tát niệm chú, từ các quả đồi, đất đai núi non mọc lên như lũy, che chắn hết các đảo và chúng sinh dân Man khỏi các cơn sóng thần.
Long Quân hóa thành con thủy long bay lên đối đầu với Giao Long, Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi mây đi theo sau.
Giao Long không hay biết gì, lao đến Long Quân mà đánh. Lúc này hai bên quần nhau, Minh Nguyệt Vũ lại dùng phép trói tay chân con Giao Long lại. Bồ Tát Phổ Hiền bấy giờ bắt quyết niệm chú, cái chuỗi Anh Lạc trên cổ rồng rung lên ầm ầm, rồi rời khỏi cổ rồng bay vút về phía bồ tát. Long Quân nhân lúc đó nhảy vụt lên, rút thanh Cửu Long kiếm ra chém thẳng xuống, xé con Giao Long ra làm hai khúc. Con Giao Long không liền thân được thì chết ngay. Bấy giờ hai mảnh thân bắn về ghim lên dọc biển nước Nam, rồi tan ra nhiều phần, thành hai quần đảo lớn (nay là Hoàng Sa và Trường Sa).
Hai Bồ tát cùng thu phép về, Man dân ở dưới dập đầu chắp tay mà lạy tạ. Bấy giờ ba con mắt rồng văng ra khỏi đầu, nằm lăn trên một phiến núi trên đảo, gọi là núi Phượng Hoàng. Các Bồ tát tiến lại, nhặt ba con mắt lên xem xét, Bồ Tát Phổ Hiền nói:
– Ba con mắt này ở gần chuỗi Anh Lạc, được con Giao Long dung dưỡng, có Phật tính ở trong, lại trộn với ma tính trong loài thủy quái thượng cổ, tất đều có lưỡng căn lớn mạnh. Do đó thân Giao Long tan mà mắt lại không tan. Nay để lại đây cho đất trời thanh tẩy nó, nghìn năm sau ta quay lại lấy về, lúc đó ma tính đã tan hết, chỉ còn phật tính có thể dùng để luyện đan hoặc luyện ra hài nhi làm tiểu đồng tử lo việc trà hương dầu nến cho nhà chùa.
Hai bồ tát cùng gật đầu, rồi các ngài tạo ra một kết giới ở trong hốc đó, cho ba con mắt vào đó, thấy xung quanh ba con mắt có nhiều thứ kim khí trông như hạt dưa, lại sáng loáng lên, thì ra đó là các vảy của con Giao Long cũng bị bắn theo, các bồ tát lại cùng dồn cho vào luôn một thể.
Vậy là nạn Giao Long xong. Các chư vị bái biệt nhà vua ra về. Địa Tạng Vương đi về Địa Âm Tự, Phổ Hiền Bồ Tát đi về nước Phật, Minh Nguyệt Vũ cũng về Minh Nguyệt Thiên Thanh, còn lại Long Quân vỗ về bách dân, sửa sang lại ốc đảo sau chiến trận, đi lên đất liền thăm gặp gặp Âu Cơ và các con, rồi căn dặn lại Hùng Vương đời thứ nhất các lời dạy của Minh Nguyệt Vũ về việc phòng chống phương Bắc, sau đó trở về thủy cung…
…
Đất trời cứ mười hai năm thành một kỷ, cứ năm kỷ thành một hội, kể từ năm Giáp Tý gọi là Hội Thượng Nguyên, kế đó sáu mươi năm tới hội Trung Nguyên, lại sáu mươi, hết hội Hạ Nguyên ở năm Quý Hợi, gọi là Tam Nguyên hội, dài một trăm tám mươi năm. Cứ một Tam Nguyên Hội, đất trời lại có việc lớn, hoặc là dị sĩ ra đời, hoặc là thần tiên đắc đạo, hoặc là vương triều thay đổi, hoặc là địa ngục rộng mở, hoặc là cung trời bị phá, hoặc là quỷ thần xuất sinh, không khi nào lệch khỏi phép “thành, trụ, hoại, không”, cứ sinh sinh diệt diệt nối nhau không ngừng nghỉ. Năm qua tháng lại, đã trải mười mấy Tam Nguyên Hội trôi qua, Long Quân đã xong việc đất nước, theo dòng máu rồng mà đi về bể từ lâu, chỉ còn lại bóng hình cho hậu thế, để lại nước Nam cho các con cháu lưu truyền gọi là vua hùng. Các vua truyền được mười tám đời thì mất nước, kế đến qua các cuộc chinh chiến liên miên, sau cùng vào thời Hán Vũ Đế lại lọt về tay người Trung Quốc. Người Trung Hoa đi vào nước Nam, mặc sức khai phá thủy sản cho tới lâm sản, vơ vét vàng bạc không thể kể xiết, đạo Phật từ nước họ cùng truyền vào trong nước, sư sãi cũng nổi lên ăn hiếp của dân đen, rồi kế tới hàng đạo sĩ cũng sang miền nam làm các thuật phù phép hô phong hoán vũ, khiến nhân dân lầm than cơ cực, trong nước rối ren lộn bậy, nổi lên đánh giết khắp nơi, sau cũng có một vài người có bản lĩnh nổi lên chống lại các quan đô hộ Trung Quốc nhưng rường mối đã mục nên đều thất bại, nhân dân rất là cơ cực, nhiều chỗ khóc than, lập đàn cầu tới Long Quân phù hộ. Đàn lập ra rồi, người ta thấy ngoài biển nổi sóng cuồn cuộn, trên biển hiện lên rồng trắng muốt chao lượn dọc mặt biển rồi vút lên không trung, xong biến đi mất.
Lúc bấy giờ trên biển có sóng to nổi lên, thuyền bè người Trung Quốc ngoài cửa biển đi khai thác đều đắm chìm hết, riêng có các thuyền nhỏ của Man dân (tức các người nước Nam bản xứ, con cháu của Long quân ngày trước) thì được bình yên vô sự. Mọi người đều xem là có điềm lạ, hết thảy cảm tạ Long Quân. Bấy giờ nhà Hán chiếm được nước Nam rồi chia làm 9 quận, sai Thạch Đái làm quan Thái Thú, Đái biết chuyện cầu cúng như thế cho là hoang đường, rất giận liền sai bắt hết các Man dân dám làm phép trù ếm thủy quân Trung Quốc làm tội, liền đó trên núi Phương Hoàng ở biển có động đất lớn, dưới đất liền có chỗ mặt đất nứt đôi, người chết vô số, Thạch Đái sai người lên núi xem địa chất thì hễ viên quan nhà Hán nào lên núi dò la, về đều bị đau mà chết, sau Đái cũng hơi sợ, sai người bản xứ làm hướng đạo lên núi thì được bình an, người hướng đạo về nói trên núi Phượng Hoàng suốt mấy ngày chim chóc bay về rất nhiều, thú dữ ra cũng rất nhiều, có các khí lạ.
Thạch Đái bèn sai thả hết người Nam bắt lần trước ra, thì động đất cũng hết.
Có đêm Thạch Thái Thú nằm mộng thấy có con rồng trắng bay vào trong giấc mơ, nói:
– Ta là Long Quân, cha cả của đám Man dân. Nay các người đã lấy mất nước của ta rồi, được no nê rồi thì đừng làm tội con cháu ta, nếu không thì đừng trách.
Đái mộng như thế cũng sợ, từ đó dân chúng ven bể được thư thả hơn.
Lúc bấy giờ các đạo sư thuật sĩ từ Trung Quốc sang nước nam hành nghề cũng nhiều, trong số đó có một vị đã già, tóc bạc như cước, cũng thường đi du hóa làm phép. Vị ấy tới núi Phượng Hoàng, biết trên núi có huyền mạch, liền tới yết kiến Thạch Đái, thưa rằng:
– Núi Phượng Hoàng là nơi tụ yêu khí, ngày xưa từng chôn giấu xác con Giao Long, tới nay khí ma vẫn còn. Nếu động chạm tới núi ấy thì họa không để đâu cho hết, xin để quan quân lui xa.
Thạch Đái bị chết nhiều người đi lên núi ấy rồi nên cũng tin, sau nghe lời, bèn rút quân khỏi núi ấy. Quan quân đi hết rồi thì vị đạo sĩ già mới lẳng lặng tự mình đi tới dưới chân núi Phượng Hoàng. Kế đó niệm chú lâm râm, biến thành con hạc trắng cất cánh bay thẳng lên trên đỉnh núi.