Bồ tát nói giữa hư không, lời nói vang vọng khắp thinh không, tất cả chúng thú và chúng quỷ thần trên núi từ lúc nào đã tụ tập dọc ngang chật kín cả đỉnh núi. Tất cả bọn chúng đều tới chiêm bái Bồ tát để được hưởng sự hóa độ lâu dài, ngài nói:
– Con Giao Long Vô Cực bị giết, xác rơi về thành hai quần đảo lớn, đầu văng tới thành núi Phượng Hoàng, mắt bắn ra rơi trong kết ấn. Tuy nó chết mà thể phách tinh khí của nó không tan ngay được, lại do bởi có Phật tính, được sự thương xót của đấng giác ngộ mà lưu lại hình tích ở đây. Đất trời trải qua muôn hội, cho tới nay phương nam đã mất về phía người bắc, Hán tộc lan tràn xuống miền nam, khiến cho thủy thổ đảo lộn, biển cả chẳng được yên, những con mắt Vô Cực của Giao Long nhận được hơi biển, lại đã hun đúc linh khí nghìn năm nay, từ từ động cựa, vì thế mà làm cho biển lở, núi tách. Hôm nay nhị vị Bồ tát đến hội đàn là để trấn yên nó lại, Minh Nguyệt Vũ cũng hạ thế xuống trần chứng kiến việc ấy, đó là điều cần thiết. Long Quân trông coi việc biển không thể lên, bèn làm phép ký thác huyền thuật cho ông, vì thế ông lên được núi này, không phải là ngẫu nhiên, vậy cùng ở đây dự lễ đàn này, kế đó, ta sẽ cho ông biết sự mệnh của Huyền Nhân trong một ngàn năm nữa.
Bồ tát Địa Tạng lại nói:
– Đã tới giờ khắc rồi, vị đạo sĩ kia, hãy ngồi vào vị trí Bát tự đồng tâm, Minh Nguyệt Vũ xin mời ngồi vào vị trí dẫn nhập, Mộc Du Tử hãy ngồi vào vị trí trùng hồn, hai chúng tôi ở vị trí chủ đàn, sẽ cùng làm nghi thức giải trấn yểm cho ba con mắt của Giao Long ngay bây giờ. Các vị giờ đây, cùng được dự và cùng chứng kiến một trong các lễ nghi nhà Phật, vậy xin hãy giữ yên lặng để lễ này được diễn ra trang nghiêm thanh tịnh.
Nói dứt lời, Mộc Du Tử liền dẫn các vị kia vào những vị trí, Tiên Tử chưa biết phải làm gì, Mộc Du Tử nói:
– Ông đã có sẵn căn cơ huyền khí, chỉ cần ngồi yên ở đó là được.
Kế đó đàn tràng ấy lập thành, các Bồ tát niệm chú lầm rầm, ngài Phổ Hiền Bồ Tát giơ cuốn kinh Kim Cang lên, ngài Địa Tạng Bồ tát thì giơ cây Kim Cang trượng lên, cảnh vật lại chìm vào hư không tĩnh lặng, rồi đột nhiên xung quanh sáng rực rỡ, đàn trang đã bắt đầu được kết, các Mạn Đà La dần dần hiện lên.
(*Mạn Đà La: Là chỉ đàn tràng tác pháp, hay hành trì bí pháp của Mật giáo. Đó là khu vực cấm chế các quỷ thần xâm nhập. Bên trong thiết trí các hình tượng hay biểu tượng, hay các ký tự tượng trưng một ý nghĩa nào đó. Đàn tràng có thể là hình vuông hay hình tròn. Nhưng thông thường được vẽ bằng hình tròn, nên Hán dịch nghĩa là luân viên hay luân viên cụ túc. Mạn Đà La là chỗ tập hội của Phật, Bồ Tát và Thánh chúng. Phân loại theo hình thức, có bốn loại Mạn Đà La: Đại mạn đà la, Tam muội da Mạn Đà La, Pháp Mạn Đà La và Kiết ma Mạn Đà La. Thứ nhất, Đại Mạn Đà La là đàn tràng trong đó an trí hình tượng các Bổn tôn; thứ hai, Tam muội da Mạn Đà La là đàn tràn bố trí các biểu tượng của các Bổn tôn. Các biểu tượng này tượng trưng cho bản thệ và phương tiện độ sinh của các Ngài; thứ ba, Pháp Mạn Đà La tức đàn tràng hay đồ hình trong đó bố trí các chủng tử tự tức các ký tự ký hiệu tự tính của mỗi bổn tôn; thứ tư, Kiết ma Mạn Đà La biểu tượng cho sự nghiệp độ sinh của các bổn tôn.)
Mạn Đà La các Bồ tát lập ra biến hóa thành hai đàn tròn, gọi là Lưỡng Bộ Mạn Đà La*, gồm Kim cang giới Mạn Đà La* và Thai Tạng giới Mạn Đà La*, để làm lễ thí cúng cho tinh phách của ba con mắt Giao Long. Hai bộ Mạn Đà La này là biểu trưng cho vũ trụ luận Phật giáo, tất cả tinh hoa của Mật Tông đều nằm trọn ở đây.
Bồ tát Phổ Hiền chủ đàn Kim Cang giới Mạn Đà La, ngài bắt đầu tụng kinh Kim Cang, hình tích của Đàn Mạn Đà La Kim Cang giới dần dần hiện lên.
Kim Cang giới có dạng là một hình tròn, gọi là nguyệt luân. Bên trong Nguyệt Luân, xếp năm vị Ngũ Trí Như Lai, lần lượt như sau:
Thứ nhất, chính giữa là vị trí đức Đại Tỳ lô giá na Phật, hay Đại Nhật Như Lai. Đó là Pháp thân Phật, như mặt trời bủa rộng ánh sáng bình đẳng và bao dung cùng khắp cả vũ trụ. Trong năm đại, Ngài biểu tượng cho Không đại (bản chất của hư không là bao dung). Trong năm uẩn, Ngài là biểu tượng cho Thức uẩn. Trong năm loại trí, Ngài biểu tượng cho Pháp giới thể tánh trí
Thứ hai, hướng đông, là vị trí A-Súc-Bệ Phật, hay Bất Động Như Lai, trong năm đại, ngài biểu tượng cho Phong đại (nhờ có Phong, mà vũ trụ có vận động). Trong năm uẩn, ngài biểu tượng cho hành uẩn (động cơ tạo tác của các loại hữu tình). Trong năm trí, ngài biểu tượng cho Đại viên cảnh trí (như tấm gương tròn bao la và ngời sáng phản chiếu mọi hiện tượng sinh thành và hủy diệt của thế giới);
Thứ ba, hướng Nam, là vị trí Bảo Sinh Phật. Trong năm đại, ngài biểu tượng cho Hỏa đại (là khả năng làm chín muồi để đưa đến chỗ thành tựu các vận động của chúng sinh và thế giới). Trong năm uẩn, ngài biểu tượng tưởng uẩn (là khả năng truy ức quá khứ và ước vọng tương lai để thúc đẩy sự tiến hành sinh hóa. Trong năm trí, Ngài biểu tượng cho Bình đẳng tánh trí (khả năng quan sát bình đẳng các pháp không bị ràng buộc ngã và pháp);
Thứ tư, hướng Tây, là vị trí A di đà Phật. Trong năm đại, ngài biểu tượng cho Thủy đại (khả năng kết hợp các pháp để tác thành duyên sinh hay duyên khởi). Trong năm uẩn, Ngài biểu tượng cho thọ uẩn (khả năng hưởng thụ thành quả của các vận động). Trong năm trí, ngài biểu tượng cho Diệu quán sát trí (nhìn thấy rõ chân tướng của vạn hữu của tác dụng sinh khởi, tồn tại và hủy diệt); Cuối cùng, hướng Bắc, là vị trí của Bất Không Thành Tựu Như lai. Trong năm đại, ngài biểu tượng cho Địa đại (khả năng duy trì sự tồn tại của vũ trụ). Trong năm uẩn, Ngài biểu tượng cho sắc uẩn (tác thành thế giới hữu tình). Trong năm trí, ngài biểu tượng cho Thành sở tác trí (thể hiện các phương tiện giáo hóa chúng sinh).
Mỗi đức Như lai đều có bốn Đại Bồ tát hầu bên thân cận. Tất cả là mười sáu Đại Bồ tát. Ngoài ra, trong nội đàn có bốn cúng và trong ngoại đàn bốn cúng, tất cả tám cúng dường Bồ tát. Lại có thêm bốn Nhiếp Bồ tát tổng thảy, Kim cang giới Mạn đà la có tất cả ba mươi bảy tôn vị.
Kim cang giới Mạn Đà La được thiết lập để biểu hiện trí tuệ sở chứng của Phật. Kim cang là loại chất rắn không bị bất cứ gì hủy hoại được. Do đó, kim cang thể hiện cho Phật thân, gọi là Kim cang bất hoại thân. Thân ấy, cũng như thân của tất cả mọi loài chúng sinh, đều do năm uẩn, và năm đại cấu thành. Năm đại tương ứng với năm trí, và nhân cách của Phật, được biểu hiện thành năm đức Như lai tương ứng, tức là Ngũ trí Như lai, hay năm vị Thiền Phật. Ngũ trí Như lai là trọng tâm của Kim Cang giới Mạn Đà La này.
Bồ Tát Địa Tạng chủ Đàn Mạn Đà La Thai Tạng giới, ngài bắt đầu tụng kinh Địa Tạng, hình tích của đàn Mạn Đà La Thai Tạng giới dần dần hiện lên.
Đàn tràng của Thai tạng giới là một đóa sen có tám cánh. Đóa sen tám cánh này chính là hình ảnh trái tim bằng máu thịt của chúng sinh. Đại bi tâm là sự rung động của trái tim bằng thịt ấy. Hoa sen, theo ý nghĩa nhân quả đồng thời, nghĩa là khi chúng sinh vừa phát tâm Bồ đề, ngay lúc ấy Phật quả đã được thành tựu. Trong đóa sen ấy, tám cánh sen gồm bốn Đại Bồ tát, và bốn đức Như lai, biểu hiện nhân cách của nhân và quả; tất cả đều phát xuất từ thể tính của Đại Nhật Như lai vốn là đài sen, ở trung tâm của Mạn Đà La này.
Bốn đức Như lai, theo thứ tự từ Đông qua Bắc, như sau:
Thứ nhất, Phương đông, Bảo Tràng Phật. Ngài là hình ảnh của Bồ đề tâm. Bảo tràng làm tiêu xí cho sự phát Bồ đề tâm. Dưới cội Bồ đề, Như lai đã dương cao tiêu xí này mà đánh bại binh chúng Ma, thành tựu Vô thượng Chánh giác;
Thứ hai, Phương nam, Khai Phu Hoa Vương Như lai. Ngài an trụ trong ly cấu tam muội, bằng hạt giống Bồ đề tâm mà vun trồng và phát triển thành vô số hành động của đại bi, như đóa hoa nở rộ;
Thứ ba, Phương tây, Vô Lương Thọ Như lai. Ngài là biểu hiện Báo thân của Phật, kết quả của vô số công đức tu tập, với hình ảnh hoa sen hàm tiếu;
Cuối cùng, Phương bắc, Thiên Cổ Lôi Âm Phật, ngài biểu hiệu phẩm tính của Niết bàn; được ví dụ như chiếc trống trời, vốn không hình tướng nhưng âm vang rền xa. Đó là pháp âm của Như lai.
Ở bốn phương góc là bốn Đại Bồ tát, như sau:
Phương đông nam, Phổ Hiền Bồ Tát;
Phương Đông bắc, Quán Tự Tại Bồ Tát;
Phương Tây nam, Diệu Cát Tường Đồng tử;
Phương Tây bắc, Từ Thị Bồ Tát.
Chung quanh trung đài bát diệp viện gồm bốn lớp, mỗi lớp có bốn viện. Mỗi viện biểu thị một phương diện độ sinh của Phật.
Các Mạn Đà La dần hiện lên đầy đủ bởi Pháp lực của nhị vị Bồ tát, trong chốc lát, cả đỉnh núi chìm ngập vào Mạn Đà La.
Bồ tát Địa Tạng nói:
– Kim Cang bộ đại biểu cho “trí”, Thai Tạng bộ đại biểu cho “bi”. Hai bộ Mạn Đà La như hai bàn tay Phật, khi chắp lại thì trọn vẹn cả bi và trí của Phật. Kim cang giới Mạn Đà La, biểu tượng cho trí tuệ sở chứng của Phật, thuộc về Trí Môn, Thai tạng giới Mạn Đà La, biểu tượng cho phương tiện độ sinh của Phật, thuộc về Lý Môn. Hai bộ này thường được bày chung với nhau, lập thành gọi là Lưỡng Bộ Mạn Đà La, hay còn gọi là Kim Thai Lưỡng Bộ; Thai Tạng giới Mạn Đà La: biểu hiện đại bi tâm của Phật, từ đó lưu xuất tất cả các phương tiện độ sinh. Hôm nay chúng ta lập đàn này, là đàn giáo Pháp bí mật của Phật môn, các ngươi là thần và tiên, đều là ngoại đạo, để các ngươi cùng dự vào đàn này, là bởi có một yếu quyết sâu xa của huyền môn gửi vào trong các ngươi vậy, yếu quyết đó, tới khi nào xong việc, sẽ cho các ngươi hay. Bây giờ, hãy cùng kết ấn Kim Cang để vào đàn, đặt ấn này trước mình, tức khắc cả hư không giới đều trở thành đại Mạn Đà La.
Nói rồi sai Mộc Du Tử dạy cho Tiên Tử và Minh Nguyệt Vũ kết ấn Kim Cang.