Bấy giờ Mộc Du Tử lầm rầm niệm chú, đoạn hai con mắt đảo tròng, bắt đầu sáng rực lên như mắt chồn, nhìn thấu suốt hai vị tiên nhân, kế nói:
– Minh Nguyệt Vũ có chín Luân xa*, đều đã khai mở thông hết, chỉ còn Tiên Tử, ông hãy bước lại đây, ta sẽ truyền Phật tính vào các Luân xa này khiến ông có thể tiếp thu Phật lực, từ đó thông được ấn Kim Cang, kế đó hai người có thể cùng kết ấn.
(*Luân xa- tiếng Phạn là Chakra, chỉ vòng tròn. Luân xa nằm trên thân người, màu sắc sáng hoặc tối của luân xa nói lên năng lực tâm linh trên người hành giả. Người ta có bảy Luân xa, ứng với bảy vị trí, bảy tuyến nội tiết ứng với cơ thể. Mỗi luân xa lại mang những đặc điểm, ý nghĩa, và giá trị cân bằng khác nhau, chúng lần lượt là: Thứ nhất, Luân xa Muladhara, có bốn cánh, nằm ở giữa cơ quan sinh dục và hậu môn, ứng với Địa đại, chủ trì tuyến sinh dục, ảnh hưởng lên bàn chân; Thứ hai, Luân xa Swadhisthana, có sáu cánh, nằm ở háng, ứng với Thủy đại, chủ trì tuyến thượng thận, ảnh hưởng đến xương chậu và lưng dưới; Thứ ba, Luân xa Manipura, có mười cánh, nằm ở rốn, ứng với Hỏa đại, chủ trì tuyến tụy và tuyến thượng thận, ảnh hưởng đến lưng; Thứ tư, Luân xa Anahata, có mười hai cánh, nằm ở ngang tim, ứng với Không đại, chủ trì tuyến ức, ảnh hưởng lên lưng trên, ngực, cánh tay, vai; Thứ năm, Luân xa Vishudha, có mười sáu cánh, nằm ở cuống họng, ứng với Nhĩ đại, chủ trì tuyến giáp, ảnh hưởng đến cổ; Thứ sáu, Luân xa Ajna, nằm ngang mi tâm, có hai cánh, ứng với Nhãn đại, chủ trì tuyến tùng, ảnh hưởng lên mắt; Thứ bảy, Luân xa Sahasrara, nằm ở đỉnh đầu, có vô số cánh, ứng với Linh đại, chủ trì tuyến yên, ảnh hưởng lên não.)
Mộc Du Tử làm phép, kế đó điểm huyệt lên các Luân xa trên người Tiên Tử, đoạn trợ thân cho ông ta khiến những Luân xa được khép chặt lại và tránh tình trạng xuất hồn* mà không tự chủ được.
Xong xuôi, Mộc Du Tử dạy lại thần chú, kế đó khiến Tiên Tử và Minh Nguyệt Vũ đồng thời kết ấn, miệng đọc thần chú hộ thân “Om, Driym”, rồi từ từ bắt ấn.
Trước nhất chắp hai tay, co hai ngón trỏ, ngón trỏ phải nằm trên ngón trỏ trái. Hai ngón cái thẳng, trám kín vòng cung của ngón trỏ phải. Chạm ngón cái của khế ấn vô sáu chỗ trên thân thể lần lượt là:
Thứ nhất, Huyệt Thần Đỉnh, giữa thóp.
Thứ hai, Huyệt Ấn đường, giữa trán.
Thứ ba, Huyệt Vân Môn trái, ở chỗ lõm ngực trái
Thứ tư, Huyệt Vân Môn phải, giữa chỗ lõm ngực phải.
Thứ năm, Huyệt Chiên Trung, giữa ngực.
Thứ sáu, Khẩu môn, giữa miệng.
Kế đọc lời nguyện cầu tới vị Đại trí Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, nguyện các loài chúng Hữu Tình, Hộ Pháp.
Kế đó thủ ấn, lấy ngón tay trỏ đụng ngón tay cái tạo thành một vòng tròn.
Bồ tát Phổ Hiền liền bắt ấn Cam Lồ (ngón áp út hợp với ngón cái khép kín), Bồ tát Địa Tạng bắt ấn Dược Sư (Ngón giữa hợp với ngón cái khép kín), xong đoạn kiết ấn, khiến hai tay lại để ngửa, các đầu ngón tay hướng vào nhau, rồi đan lại với nhau, kế nới ra từ từ, chỉ còn hai đầu ngón cái chạm nhau, từ đó liền kết xong ấn.
Ấn Kim Cang kết xong, các Bồ tát bước vào nghi thức trì giới.
Sau khi thiết trí đúng pháp đàn tràng Mạn Đà La, và thể hiện đầy đủ Tam mật Du Già, Mộc Du Tử ở vị trí Thị giả dẫn đàn bắt đầu xướng lên:
Bảo tọa cao cao vô ngại
Thượng hữu thiên thùy bảo cái
Thỉnh sư na bộ đăng đàn
Đại vị cô hồn thuyết giới.
(Bảo tọa cao vời không ngại,
Trên có trời giăng lọng báu.
Thỉnh Sư dời bước lên đài
Vì cô hồn mà thuyết giới).
Bồ Tát Phổ Hiền ở vị trí người chủ trì (Gia trì sư) liền hướng về phiến Thạch Ma, thuyết giới cho phiến đá thần nghe và tất thảy chúng hữu tình đang chầu quanh đàn nghe:
“Viên minh nhất điểm bổn phi không
Liễu chứng vô vi hướng thượng tông
Tam thế chư Phật na nhất bộ
Quyền lưu bảo tọa tức ngô đăng”.
(Một điểm ngời sáng, tròn đầy, vốn không phải là không hư.
Từ đó mà hoàn toàn chứng nhập vô vi, là tông chỉ siêu việt.
Ba đời chư Phật không hề đến hay đi.
Lưu lại nơi đây bằng phương tiện quyền xảo).
Bồ tát dạy:
– Bản tánh của các pháp là Tánh không, vì do tương quan mà hiện khởi. Nhưng có hiện khởi tức không thuần là không hư. Cho nên hiệu là Như Lai*, đúng như bản tánh của Pháp mà đến và cũng như các pháp mà đi. Trong tuyệt đối, Như Lai không đi cũng không đến. Vậy, bảo tòa cao vọi kia phía trên có chư thiên trương dù lọng ra che, là sự hóa hiện từ phương tiện đại bi tâm, Phật của Phật, cũng bằng vào đại bi tâm đó, ta sẽ thiết trí lễ này, ban pháp cho các người.
(*Như Lai: Một trong các danh hiệu để gọi một vị Phật, có nghĩa là người đã đến như thế, đã đi như thế, đến từ cõi Chân Như, không đến cũng không đi.)
Sau khi bước lên bảo tọa, Bồ tát nói:
– Phật đã chỉ dạy một nghi thức làm lợi ích cho cả chư thiên và loài người. Lời Kinh nêu rõ pháp điển bí mật có khả năng siêu hóa từ chốn lầm than. Giáo thuyết diễn rộng ba thừa để cứu vớt khổ đau bị treo ngược. Tôn giả Nan đà nhân bởi lúc tập định; lúc đó Bồ tát Quan Âm, vì để cứu khổ, nên hiện thân làm quỷ Diện Nhiên (quỷ mặt lửa). Từ đó, nêu cao đức từ bi, cứu tế vật loại, là tam muội chân thật. Quả được chiêu cảm, ân được ban cho, lưu truyền vạn cổ. Tới nay vị Phật Như Lai đã tịch được mấy trăm năm, nghi thức ấy không đổi, và còn lưu truyền về sau này nữa, các hàng đệ tử Phật đều nghe theo mà làm lợi, nghi thức ấy, chính là thí thực cô hồn*.
(Trong Diệm khẩu kinh nói: Vào một lúc nọ, giữa đêm khuya, ngài A nan (một trong các đại đệ tử của Phật) trong khi đang ngồi tu tịnh tại chỗ vắng, bỗng thấy một con quỉ gọi là Diệm Khẩu, miệng đỏ rực như lửa, thân hình quái dị ghê gớm, bảo A nan ba ngày nữa ngài sẽ chết. A nan nghe nói hoảng hồn, sáng hôm sau tìm Phật hỏi phương tiện. Phật mới dạy phương pháp thí ngạ quỉ, từ đó lưu truyền pháp ấy.)
Kế đó Bồ tát thuyết, tình tự nồng nàn được phát tiết như là những tiếng ngậm hờn thiên cổ, sống không nói được, chết chôn vùi theo cát bụi, ý tứ thì thâm trầm mà nhiều day dứt. Người sống cho tới ma quỷ nghe lời kinh sư giọng ai của Bồ tát hết thảy rơi lệ.
Lời thuyết sâu xa mầu nhiệm, thuyết bằng Phạn văn, oai lực từ phép Thinh Âm của hàng Bồ tát bí nghĩa lưu truyền, tuyệt đỉnh thinh âm rung cảm cả trời đất, quỷ thần đều chỉ biết ngậm ngùi lắng nghe, người trong đàn cũng không ai ngăn được sự kính sợ lẫn thương cảm. Những lời thuyết chú bí mật, không thể nào diễn giảng ra trong tiểu thuyết, chỉ có thể đại lược như sau:
– Mộng tranh hùng tranh bá, làm chúa làm vua, nay chinh Nam mai tảo Bắc. Nhưng rồi từng đêm suốt những canh dài, từng tiếng quốc kêu rủ rỉ, màu sương trăng lạnh phủ trên cánh hoa đào, giòng máu oan thiên hận sự bất thành nhuộm đỏ đầu cây ngọn cỏ. Vậy thì, giang sơn như họa còn đó, mà anh hùng hào kiệt một thời ở đâu, đâu là ảo vọng của đời người? Giấc mộng trường sinh bất tử, chẳng lẽ trong thoáng chốc chỉ còn ký thác cho ngọn gió gào thét hồn oan? Chỗ khác là những bậc nuôi chí xuất trần, chống tích trượng phất phơ trên đỉnh núi cao vời vợi. Nhưng rồi, “chuỗi hạt lần không mòn vách đá”, thì than ôi còn đâu? Cuối cùng, người ta tự hỏi: ước mong muôn thuở của nhân sinh là gì? Mối hận mà lúc sống đã không xong, bấy giờ chôn vùi dưới đất nghìn năm, biết bao giờ mối hận mới đông thành một viên ngọc bích long lanh?
(mọi người inb và cmt để tham gia gr thu phí giá chỉ 150k để đọc full truyện và cũng là ủng hộ công sức tác giả viết truyện nhé. xin chân thành cảm ơn ạ. stk nhận tiền trà nước: 8000124281007. mb bank. lại văn thành )
Quỷ thần trên núi, nhiều con nghe rồi tức tưởi. Phiến Thạch Ma bị phong ấn nằm im lìm giữa đàn cũng rung lắc càng lúc dữ đội hơn, tưởng chừng bị lời kinh thuyết làm cho điên đảo.
Thuyết kinh sư xong, Bồ tát Phổ Hiền gập cuốn Kinh Kim Cang lại, nói:
– Chúng đã chịu nghe kinh rồi, văn tế độ đã xong, bây giờ hãy phong ấn chúng lại.
Bấy giờ Bồ tát Địa Tạng bước lên khỏi vị trí chủ đàn để khai mở bí thuật, ngài đặt viên Dạ Minh Châu lên phía trước đàn Mạn Đà La, lập tức từ viên Dạ Minh Châu ấy phát động ra xung quanh một đồ hình có bốn màu sắc sặc sỡ, ăn lan ra như rắn bò các dòng kí tự, đi theo bốn hướng Nam, Tây, Bắc, Đông lần lượt tương ứng với các dòng hoa văn Đỏ, Trắng, Đen, Xanh. Đồ hình lập tức biến đổi, các dòng kí tự ăn lan ấy hóa thành bốn con thú lần lượt là Phượng, Hổ, Rùa, Rồng, quấn quanh đồ hình, rồi án ngữ chắc vào một vị trí trên đồ hình, gọi là Linh Tọa.
Mộc Du Tử lập tức bước lên ngồi vào vị trí hướng Đông màu xanh trên đồ hình, con rồng chầu ngay dưới chân Du Tử, tức thì ngay dưới Linh Tọa hiện lên một dòng thần chú:
“Om Tare Tuttare Ture Soha”
Đoạn ngài Địa Tạng rời khỏi chủ đàn, giơ thanh Kim Cang Trượng lên, bổ một nhát thẳng vào phiến Thạch Ma. Oai lực kinh thiên động địa giáng xuống, núi trời đều chao đảo, Tiên Tử, Du Tử đều thấy buồn nôn điên đảo, rùng mình sởn gai. Ngay cả Minh Nguyệt Vũ cũng phải nhăn mày.
Bấy giờ phiến Thạch Ma động đậy rồi dần rạn vỡ, sau đó vỡ tung ra, từ bên trong, khí quỷ dị bốc ra ngút trời. Trong đàn tràng Mạn Đà La đã cấm chế quỷ thần và làm các kết giới, vậy mà khí lực từ quỷ thần vẫn tràn ra có lúc tưởng vỡ cả đàn của Bồ tát. Từ trong Thạch Ma, bay lên ba ngọn gió lớn có ba màu trắng, đỏ, đen, trắng khác nhau, mà quấn lấy nhau, lồ lộ ra thành hình con mắt cũng có màu ấy, cùng nhìn chòng chọc về hướng Bồ tát.