Vu gia liệt truyện

Chương 38



Bồ tát nói:

– Kể từ hỗn độn bắt đầu, bấy giờ có Phật Uy Âm xuất thế*, sáng làm tị tổ của Thiền tông, vào thời ấy, tục còn thuần hậu, người nhiều chất phác, kinh giáo ở tại hư không, không cần nói ra để hóa độ. Kể từ ngày chúng ta đi đến nước Hồng Bàng bắt con Giao Long dữ, Phật đạo đã mầu nhiệm, năm trăm năm về sau, sinh ra lắm kẻ giả quỷ giả thần, lấy ma làm Phật, trá ngụy ngày càng sinh, gian dâm ngày càng dấy, nghiệp nợ kết đầy, chướng tội thêm thẳm, nếu chẳng dùng đến thuyền từ cứu vớt, thì chẳng thể được*, cho nên cha cả Thích Ca xuất hiện ở cõi Ta Bà*, đúc kết giáo pháp, vì bọn người u mê mà nói ra kinh kệ, dạy dỗ chúng sanh,

“Chín kiếp vượt tu

Công thành quả mãn,

Phật giáo đại hành,

Thiền tông tiếp nối,

Như gió thổi qua sáu nẻo*, để đem mát lành,

Như tuyết rơi trên ba đường*, để dẹp nóng dữ.

Bí quyết thành Phật làm Tổ, từ đó mới mở được mối manh,

Phật giáo thịnh vượng vô cùng, Đó là vào thời Hành Pháp*. Được tám chục năm, Thích Ca hết kiếp người thì thị tịch, cái mầm mống của Thiền Tông đã được mối manh, vẫn còn được thịnh thêm năm trăm năm nữa, gọi là thời Tưởng Pháp. Cho tới bây giờ thì vận hội của trời đất đã hết, Tưởng pháp được năm trăm năm thì qua, bước sang thời Mạt Pháp, ma tăng phù thủy nổi lên như sóng cuộn, vận mệnh Phật pháp ngả nghiêng, cũng chính là lúc nước nam mất về tay nước Bắc, là biến sự chính trị trọng đại, cho thấy đất trời cũng cảm thấu với việc mưu tính của loài người, bởi vậy mà đất trời động đậy, biển dữ thét gầm, khiến con giao long đã ngủ yên ngàn năm cũng phải cựa mình, gây ra sóng dữ ở bể, gây ra động đất ở bờ, làm cho dân chúng điêu đứng, chính là cái điều quỷ thần đã giận vậy. Phật đạo và Phù thủy đạo, đều sinh sinh diệt diệt, theo đời mà hóa, nhập với chúng sinh, nay thấy cảnh ấy chẳng thể nào không thương xót, bởi thế đàn lập ra có bốn chứng, hai Bồ tát chủ đàn, kế tới hai người của đạo giáo, một kẻ trên trời, một kẻ dưới đất, làm tôn chứng cho việc hóa sinh này. Nguyện của các Bồ tát ở trong Tứ Đồ Hình này, muốn bởi vậy mà đem ba viên ngọc quý giá con Giao Long Vô Cực để lại gieo xuống nhân gian, làm dập tắt đi cái sự điên lộn, khiến rạng rỡ sự nghiệp huyền nhân. Ba con mắt rồng này lần này độ sinh, sẽ lặn ngụp trong cõi Ta Bà nhiều kiếp, cho tới một ngàn năm nữa, chúng sẽ giao gặp với nhau, kế thêm một ngàn năm sau nữa, chúng sẽ hết hành tích, khi đó các Bồ tát đem chúng về nước Phật. Trong thời gian ấy, bọn chúng chìm nổi, chịu đau khổ hay vẻ vang, hóa thành nhiều kiếp khác biệt, có kẻ lòng Thiền sáng như mặt trời, gương đạo trong như giá băng. Có kẻ ác độc thăm thẳm, giết người tạo nghiệp, có người ra đời để giúp nước an dân, làm vương làm tướng, có kẻ nhập thế để đỡ ngã, vớt chìm, có kẻ là vua chúa, có kẻ là phù thủy, có kẻ là nhà sư, đều thế biết hóa không ngớt. Chúng ta ở các cõi khác, bận việc hóa độ, chẳng thể xem xét việc ở trần thế, cũng chẳng thể can dự vào công việc của sự sinh hóa, nếu mà can hệ vào, tức là nảy sinh các niệm thiên vị, một khi nảy sinh ý niệm, thì cũng không tránh khỏi sự quở phạt của luật nhân quả, Bồ tát cũng không có ngoại lệ. Minh Nguyệt Vũ ở cõi trời trên cao lại càng lắm việc phải trông coi, tiên giới hay ma giới cũng đều lắm việc như ở nhân giới, vậy nay chỉ có ông là người trần, lại có thể sống mãi nhờ phép trường sinh, có thể kí thác nhờ ông theo dõi sự sinh trưởng của thân thể con Giao Long Vô Cực. Hoặc là ba viên Nhãn Long, hoặc là hai mươi tám cái vảy, hết thảy chìm ẩn hiện thân, hóa vào nơi này, sinh vào nơi kia, chém chém giết giết lẫn nhau, hoặc tương trợ củng phò cho nhau, đều do sự ràng buộc riêng tư của chúng trong thân xác Giao Long ngày trước, ông hãy liệu để ý coi sóc cho chúng. Tiên Tử, ông hãy vì chúng sinh, vì việc huyền nhân, canh giữ bọn chúng, làm cho đạo huyền nhân được đèn đèn nối nhau, hương lửa trao truyền, sáng cháy mãi không đứt đoạn.

(* Uy Âm Phật, tức Đức Phật đầu tiên của thế giới Không kiếp, trước đó không có một Đức Phật nào hết. Cho nên tên Đức Phật này được dùng để chỉ cho ranh giới giữa giai đoạn lúc chưa có sự phân biệt của chúng sanh và giai đoạn sau đó khi đã có sự phân biệt. *Ta bà: Phạn: Tên thế giới của chúng ta, được định nghĩa là thế giới “chịu nhận ba thứ độc (tức tham, sân, si) và các loại phiền não”. *chín kiếp, Cửu kiếp lịch tu: Điển tích Phật Thích Ca, nhờ ngợi ca Đức Phật Phất Sa bằng bài tán thán trong khi đang làm một vị Bồ tát trên đường đi tới giác ngộ, mà đã có thể thâu ngắn thời gian tu hành của mình bằng cách vượt được chín kiếp, để trở thành Phật Thích Ca, trong khi Di Lặc còn phải đợi chín kiếp nữa. *sáu nẻo: Lục đạo luân hồi, cũng gọi là Lục thú, tức chỉ cho sáu con đường sống sáu lối sống, đây là con đường sống của thiên thần, của con người, của phi thiên, của súc sanh, của quỉ đói và của địa ngục. *Ba đường, tức Tam đồ, đấy là: 1. con đường lửa chỉ cho chỗ lửa dữ của địa ngục, 2. con đường máu chỉ cho thế giới ăn nuốt lấy sinh mạng của nhau tức loài súc sanh và 3. con đường đao kiếm chỉ cho thế giới đấu tranh bức hiếp lẫn nhau tức loài quỷ đói. *Hành pháp: Đạo Phật chia làm ba thời kì, khi Thích Ca tại thế gọi là Hành Pháp, sau khi ngài mất năm trăm năm là Tưởng Pháp, sau đó nữa là Mạt Pháp.)

Tiên Tử nhận được bản nguyện lớn lao của chư Bồ tát, vội phủ phục tiếp nhận.

Bấy giờ xin Minh Nguyệt Vũ xem cho một quẻ về việc sinh tử của ba viên mắt rồng, Nguyệt Vũ coi đồ hình, lại gieo lên quẻ bói, ngẫm nghĩ rồi nói:

– Thủy hỏa chống nhau, Thủy Nhãn phát ở phương bắc, Hỏa Nhãn phát tích ở đất nam, đều làm chủ tông phái của chúng, nhưng chắc có sự tranh đấu cừu thù. Thủy Nhãn là nữ tử, gọi là Thủy Vân Tử, Hỏa Nhãn là nam cường, gọi là Hỏa Minh Tử. Kim sinh ra Thủy, chắc là trong đời có tướng phu thê, Kim Đoài hướng tây, Thủy Khảm hướng bắc, giao của chúng là quẻ Tây Bắc Càn thiên, vậy lấy Thiên là chữ hiệu, sau này lập thành tông phái, gọi là Thiên gia môn, sai sao Tâm (tức Tâm Nguyệt Hồ- Hồ ly), sao Chủy (tức Chủy Hỏa Hầu – Khỉ) khai sáng Thiên gia. Hỏa Nhãn đi về miền nam phát tích, lập ra phái huyền thuật, sai sao Khuê (tức Khuê Mộc Lang – chó sói), sao Tất (tức Tất Nguyệt Ô – quạ đen) làm việc đó, và phát tích cho chúng. Kim Nhãn ở trung đạo, đối diện có Mộc Chấn Tử, lại ứng Càn Đoài, chắc sau này có lúc làm Minh Chủ, có khi lại xuất thế, vậy gọi là Kim Thiền Tử, sai sao Cang (tức Cang Kim Long – rồng), sao Sâm (tức Sâm Thủy Vượn – vượn) hiện ra phò trợ cho chúng. Các người y giáo thi hành, thì hết hội đất trời, chắc nhờ có bọn chúng mà nước Nam lấy lại được khỏi tay người bắc đấy.

Bấy giờ quay sang Tiên Tử, lại nói thêm:

– Lễ đàn đã xong, ta sắp phải đi. Này Tiên Tử, ai có việc ở cõi đấy, thường không phạm vào nhau, Phổ Hiền ở Tây Phương, Địa Tạng ở U Minh, ta ở Thiên Thanh, vậy các việc nhân thế, ông hãy dõi theo mà sắp xếp. Nên biết trong muôn kiếp, cứ hễ nơi nào, thời điểm nào, có đồng thời trên bảy vì tinh tú cùng xuất hiện, thì ở đó có một Nhãn Long hóa sinh, có đồng thời trên mười ba vị cùng hiện, thì ở đó có Tam Nhãn đụng mặt nhau, bất kể thời đại nào, hãy biết lấy việc ấy. Công việc trần thế khó khăn, bọn Nhãn Long đều có thiên căn, đại vô thượng căn u ẩn, bọn tinh tú cũng đều có thượng căn u ẩn, dù ông là tiên đã đắc đạo nhưng nếu không cảnh giác chắc có lúc cũng bị chúng ngăn trở, có khi còn bị chúng đoạt mạng, vậy để lại cho ngươi hai con cổ quỷ, sinh ra từ đất trời, sống từ thời hồng hoang, để ngươi có chốn dụng công sai phái, lại có sự phòng thân.

Nói đoạn chắp tay lầm rầm niệm chú, hai bóng quỷ lập tức từ cây trâm ngọc trên đầu Minh Nguyệt Vũ tức thì hiện ra, một bóng khói đen đặc, bóng khói kia lại trắng muốt, tương phản lộ rõ, từ từ tụ lại thành hình, khấu đầu diện kiến. Bóng quỷ đen khoác áo chùng đen dài nhám khói, có ba con mắt, không có chân, lơ lửng trên không, chính là cổ quỷ từng đi theo Long Quân đánh rồng năm xưa, gọi là Dạ Xoa, có phép thinh âm rất mạnh. Bóng quỷ trắng toàn thân trắng muốt nhờ nhờ, khuôn mặt trắng đẵn, không có ngũ quan, không có mũi miệng, gọi là Vô Diện, có phép hóa hình rất mạnh.

Minh Nguyệt Vũ nói:

– Hai con quỷ này, một con chuyên về thanh âm, một con chuyên về hình tướng, nay cùng để cho đi theo Tiên Tử.

Tiên Tử vội lạy nhận ý. Kế đoạn, các Bồ tát cùng làm phép giải đàn, hoa Mạn Đà La bay rợp trời, mây trắng cũng phủ ngút ngàn đỉnh núi, Tiên Tử thấy hai quỷ cùng khấu đầu thật thấp, bất giác cũng cúi đầu sát đất khấu theo, tới khi ngẩng đầu lên, thấy chung quanh âm u bất tận, chẳng còn đàn tràng, cũng chẳng còn mây báu, không còn các vị tiên nhân hiền giả ở đó nữa, đỉnh núi đã bị giải phong ấn rồi.

Lúc bấy giờ trên một ngọn cây có tiếng xôn xao, Tiên Tử vội ngước lên thấy con chồn đen, biết đó là Mộc Du Tử, cũng liền quỳ lạy. Chồn đen nói:

– Kim Thiền Tử và Thủy Vân Tử đều là đệ tử thị giả của Bồ tát Phổ Hiền, nhân duyên của bọn chúng sẽ sắc bén hơn. Hỏa Minh Tử được chọn làm thị giả của Bồ Tát Địa Tạng cùng với ta, lại ở Nam Hạ Hỏa vốn thuần hậu mà lỗ mãng, ông nên chú ý dìu dắt. Khi nào Hỏa Minh Tử giáng thế, ta sẽ tới thăm ông.

Tiên Tử vội chắp tay lạy, chồn đảo chân rồi biến mất giữa hư không. Bấy giờ bốn bề vắng lặng, Tiên Tử như thoát khỏi cơn mê, vội vàng chắp tay niệm chú, thấy đã biến lại được thành cánh hạc, bèn cất cánh bay xuống núi.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.