Trọng Mậu lẳng lặng đi theo Tiên Tử, ra tới vườn thì gặp Tiên Tử đang đứng trên một mỏm đá mọc chìa ra bên một chiếc ao nhỏ, lẳng lặng nhìn xuống dưới nàn nước trong biếc, Trọng Mậu khẽ khàng bước lại bên cạnh, nói:
– Trên đỉnh núi mà chế tác được cảnh vật thú chơi như thế này, thì trong vương phủ cũng không bằng được.
Tiên Tử cười bảo:
– Chỉ là chiếc ao nhỏ tự đào, cũng chẳng đáng kể gì. Cái gì tự nhiên vẫn tốt hơn.
Trọng Mậu thấy động dưới nước, lại hỏi:
– Thưa đạo tiên, dưới kia là cá gì?
Tiên Tử nói:
– Đó là cá rồng, loài cá này nên được nuôi trên đỉnh núi, rất quý. Người ta bảo cá mà leo núi, chẳng phải nói nó đấy sao?
Đoạn bật cười, Trọng Mậu cũng bẽn lẽn cười theo, cố giải thâm ý trong lời nói, Tiên Tử cúi người xuống, khoát tay vào làn nước đen lạnh, có một con cá từ từ bơi lại trên tay, Tiên Tử bắt lấy lôi lên, chìa ra trước mặt Trọng Mậu, nói:
– Cù Tiên Sinh, cá ở đây không ăn thức thường, nó ăn sương tuyết, nghe thần chú, hưởng ánh nắng trên đỉnh núi, nuốt các cô hồn bóng quế bị chúng đệ tử trên núi tróc được, nên đều đã thành tinh cả rồi. Chỉ là rằng, cá vẫn cứ là cá, dù có gọi tên nó là rồng, nó cũng chẳng thể hóa thành rồng.
Trọng Mậu cũng hơi hiểu ra ý tứ, nhưng sợ nói sai bị cười chê, lại không dám lên tiếng gì, chỉ lặng im nghe lời giáo huấn.
Bấy giờ Tiên Tử không nói gì nữa, lại thả con cá xuống lại ao, cá bị bắt lên bờ cũng không vùng vẫy gì, khi thả xuống thì bơi lẩn quẩn ở tay người, sau Tiên Tử rút tay lên cá mới lướt đi, Trọng Mậu càng biết cá này đã thành tinh thật.
Trọng Mậu hỏi:
– Thưa đạo tiên, tôi nghe ngài đã sống từ muôn ngàn kiếp trước, có phải như thế?
Tiên Tử đáp:
– Thân xác này chỉ là giả tạm, việc trường sinh bất tử, chỉ là đáy nước mò trăng. Cứ mỗi khắc trôi qua, không có ai là còn như trước, lại cũng không có ai chết đi, về điều này thì giáo lý nhà Phật so với tuyên ngôn trong đạo không khác. “Xác là thể phách, hồn là tinh anh”, thân xác người ta chết đi, nhưng tinh anh thì còn đó, người luyện tiên thuật thì giữ gìn được cho tinh anh đó nhớ mãi không quên, vậy có thể nói ta đã chết rồi, cũng có thể nói ta còn vậy.
Trọng Mậu hiểu ra lẽ sâu xa ấy, rất là phục.
Tiên Tử ung dung nói:
– Vu Chấn phụng mệnh về lại trần gian, chắc là đã cho ông biết đôi điều ngày trước?
Trọng Mậu gật đầu, nói:
– Ngài phán quan đã có sự kí thác gửi gắm, từ đó tới nay, tôi cùng Lục Nghị vẫn cứ day dứt trong lòng không biết nên làm gì cho đúng. Ngài chỉ dặn rằng cứ thuận theo thế thời, đám trẻ trong nhà, đều là có mệnh, cần nên săn sóc cẩn thận. Đến giờ bọn trẻ đều đã lớn, đứa theo đường đạo đã về với núi, bọn ở nha môn thì đã trưởng thành, nay mai là cầm binh, nắm quyền, mà chúng tôi là bậc đi trước vẫn còn mông lung chưa hiểu ý tứ, dám xin Tiên Tử chỉ dạy.
Tiên Tử nói:
– Mọi việc đều có cội rễ sâu xa, mà việc giáng trần của bọn Nhãn Long đều liên quan tới việc nước. Gần ba mươi năm trước, vào lúc nhà Lý bị diệt, Tâm Nguyệt Hồ đã xuống trần, dựng lên Thiên Gia Môn ở đất Minh Cảnh, thao túng cả xứ quân doanh ấy, ý đồ lợi dụng lúc trong nước rối ren để gây dựng lên thế lực cho Thiên Gia Môn, nhằm hậu thuẫn cho Kim Nhãn sau này, nhưng mưu chính trị ấy của Nguyệt Hồ bị triều đình biết được, nhà Trần sai binh đánh dẹp, Thiên Gia Môn mới thành hình chưa thể đứng vững nên phải tan lìa. Trong nước gọi đó là “Loạn Minh Cảnh”, rất ít người biết tới phiên hiệu Thiên gia của chúng, chỉ xem như cuộc tranh đấu nội bộ ở vùng đất. Về sau Thiên gia môn còn mầm mống, chốn chạy sang nước Đại Lý rồi lại phát lên ở đất ấy trở thành cường thịnh. Kế gặp phải nạn người Thát (Mông Cổ) đánh vào nước ấy, Thiên gia môn gốc tích từ miền nam không được triều đình dùng, về sau lại bị người Thát đánh, cuối cùng lần nữa tiêu tán chẳng thể đứng vững trong đất lạ, nhưng các bậc gia chủ đều là quỷ thần, mầm mống cứ day dứt mãi không tan, cho tới giờ lại có nhiều kẻ trở về miền Nam. Gia chủ của Thiên Gia Môn là Thủy Vân Tử, được định sẵn là chống nhau với Hỏa nhãn, các ông đều là sao phò trợ cho Hỏa Nhãn, vậy phải hết sức lưu ý.
Trọng Mậu hỏi:
– Thiên gia môn đã tan bên Đại Lý, vậy Thủy Vân Tử nay ở đâu?
Tiên Tử nói:
– Thủy Vân Tử có con Dạ Xoa đi bên cạnh, nó là yêu quái từ thời thượng cổ, có phép bức khí* đệ nhất, không thể dò biết được nó ở đâu hết, chỉ có thể phòng ngừa nó thôi, giờ nó đã trở về nước Nam rồi đấy.
(*bức khí: phép này của quỷ thần, nhằm che giấu hành trạng cho bản thân chúng và cho chủ nhân của chúng. Dạ Xoa có phép bức khí ảo âm là phép tối thượng, khiến cho chủ nhân đi không phát ra tiếng, lại không toát ra khí, huyền nhân không có cách nào dò tìm được.)
Trọng Mậu nghe xong thì hơi rùng mình, lại hỏi:
– Xin hỏi Hỏa Nhãn ở đâu? Phán quan căn dặn chúng tôi trợ lực, nhưng cho tới giờ vẫn chưa biết gốc tích.
Tiên Tử nói:
– Hỏa Nhãn họ Trịnh, tên Phong, hiện ở đâu cũng không biết được, cũng không biết còn sống hay chết, các ông hãy gắng sức tìm kiếm.
Trọng Mậu thấy cũng mờ mịt, nhưng cũng không dám nói gì, chỉ biết cúi đầu xin gắng sức.
Tiên Tử nói:
– Lục Tần là bậc tài giỏi, nhưng sợ không thọ được lâu. Vu Đạt có thể cầm quyền, ông hãy theo giúp cho nó.
Trọng Mậu cúi đầu lĩnh mệnh, tới ngày hôm sau, cùng với bọn học trò rời khỏi núi Bạch Hạc.
Cù Tử Phạm ở lại núi, vì nhập môn sau Vu Đạt nên làm em, gọi Đạt là Tứ ca. Tiên Tử chọn Cù Tử Phạm ở lại là có dụng ý dạy bảo để sau này thay cho Phúc Chương, quả nhiên mấy năm sau Lê Phúc Chương nhận lệnh của thầy, vào kinh ra triều làm quan cho nhà Trần, các việc lớn nhỏ trên núi, đều giao lại cho Tử Phạm. Tử Phạm là bậc đạo nhân thuần thành, một lòng kính cẩn, đạo đức sáng như gương, làm việc chu chi mà công bằng, căn cơ lại cao vượt, ngày sau xây dựng nên Bạch Hạc Sơn thành một chính phái lớn mạnh khắp nước Nam.
…
Lại nói từ trên núi trở về nhà, các việc bí mật mà Tiên Tử căn dặn, hết thảy Mậu đem về nói với Lục Nghị, chỉ riêng có việc Lục Tần bị Tiên Tử xem bói nói là yểu mệnh thì Mậu không nói ra. Lục Nghị biết có Nhãn Long đã đi tới nước Nam, từ đó lại càng ráo riết đốc thúc cho bọn con cháu trong nhà học hành về binh pháp, đặc biệt chú tâm tới Vu Đạt và Lục Tần, muốn mau cho chúng cầm quân, gây dựng thanh thế, để chống lại những điều sắp đặt.