Vu gia liệt truyện

Chương 42



Một hôm Lục Nghị gọi các con lại, đoạn nói:

– Các người nay đều đã khôn lớn, chữ nghĩa cho ăn học bao nhiêu năm tới lúc dùng được, vậy dần dà nên cho thử công việc bên ngoài. Vừa rồi ở vùng Hà Khê bị lũ lụt, sông Giang sụt một đoạn đê dài hơn trăm trượng, nước tràn vào ruộng khiến dân vùng ấy hết sức khổ sở, các người ai đi lo việc đắp đê sửa sang cho dân chúng?

Lục Tần nói:

– Việc ấy con có thể làm được.

Nghị đáp:

– Ngươi sắp vào trong triều bổ nhiệm, không đi được.

Đoạn quay sang nhìn Vu Đạt và Lục Báo, Báo nói:

– Con muốn cầm binh đi đánh dẹp giặc, những việc cỏn con gieo trồng thiên tai linh tinh con không muốn làm, hãy để Vu Đạt đi.

Nghị nói:

– Vậy đang có giặc ở Thổ Chu, quan quân rất khổ nhọc với chúng mà không đánh được, ngươi dám đi không?

Báo khẳng khái xin đi, Nghị bèn cho Báo đi ra Thổ Chu, sai Cù Trọng Mậu đi theo dìu dắt cho Báo. Việc hàn lại đê ở sông Giang thì giao lại cho Vu Đạt. Đạt nhận lệnh, vội về chuẩn bị lên đường ngay.

Đạt là người cẩn thận, rất là xem trọng công việc, dù là việc nhỏ hay lớn, trước nhất hỏi han các môn khách trong phủ xem công việc đê điều như thế nào, thủy thổ ở vùng Sông Giang ra sao, sau mới lên đường, đem hơn ba trăm người đi vào đất Hà Khê.

Ở Hà Khê năm ấy bị lụt lớn, đê sạt lở cả một dải dài rộng, nước đi vào ruộng, người dân hết sức khó khăn, thấy quan quân đến, ai cũng ca tụng. Đạt sai quan Hộ Đê đi xem xét công việc để đắp đê, bấy giờ phụ lão trong vùng có người tới nói:

– Thưa thiếu gia, trên sông Giang có một vị thủy thần rất là linh thiêng, miếu xây cách đây bốn mươi dặm, trước nay dân chúng có việc gì thì tới cầu đảo rồi thả lễ vật trâu bò lợn gà đều được linh ứng, nay đắp đê, xin thiếu gia cứ đến miếu xin, chắc là được.

Đạt hỏi quan Hộ Đê, viên quan đáp:

– Đúng là như thế, bình thường có công vụ ở đây, luôn phải thờ cúng.

Đạt bèn đi tới nơi có miếu. Đạt xem xét một lượt xung quanh, thấy đất ở đó hiểm độc, mà lại có miếu dựng ở trên, đoạn lần tìm xung quanh, lại thấy có một huyệt* ở cách miếu không xa, có một đường sơn mạch* đi thẳng vào trong cửa minh đường*, đoạn phóng tầm mắt nhìn ra xa, thì thấy có triều sơn* là hình con rắn bò, phía trước sa sơn* lại có chu tước* thành gò đống, lởm chởm nhấp nhô. Đạt hỏi bọn dân làng:

– Thủy thần đòi lễ vật gì vậy?

Người làng nói:

– Thủy thần cũng dễ tính, chỉ cần thả trâu bò xuống dưới sông là được, mỗi năm cúng bốn lần vào bốn mùa, mỗi mùa một đôi trâu, bốn con bò cái, là sông yên ổn.

Đạt lại hỏi:

– Thủy thần tên gì? Vào đời nào? Vua nào phong? Có biết không?

Dân làng nhìn nhau băn khoăn, rồi nói:

– Xưa nay chỉ biết là thủy thần, chứ biết đâu mấy điều đó làm gì?

Đạt nói:

– Nếu là thần được nhà vua phong, phải có sắc ấn đàng hoàng, kèo cột nguy nga, chứ đâu có cái miếu âm u thế này? Tôi đi xem một vòng quanh đây, xem cửa huyệt thế này, chắc là ai chết ngày trước mà là phù thủy nên chết rồi không đi được, ở đây thành tinh tác yêu tác quái. Tôi phụng mệnh nhà nước tới hàn đê lại cho dân được nhờ, đó là việc tạo phúc cứ thế mà làm, nếu là thượng thần có lẽ nào lại không giúp?

Nói đoạn sai bọn thủ hạ chở gạch đất các thứ giàn ra để vá lại đê.

(*Huyệt: Trong đông y là huyệt đạo trên cơ thể người, trong phong thủy là chỉ cho nơi tụ khí cảu long mạch, thủy khẩu, minh đường, là nơi xây nhà cửa hoặc táng mồ mả vào thì được sự đại cát đại lợi; *Sơn mạch: Là các dải núi đi từ tổ sơn đến huyệt, tổ sơn nước ta là Thiếu Tổ Sơn núi Tản Viên (Tản Viên Sơn), tổ sơn của trái đất gọi là Thái Tổ Sơn, là dãy Hy Mã Lạp Sơn. Các mạch đều bắt nguồn từ tổ sơn chảy ra tứ bề. Sơn mạch nên như rắn bò trong cỏ, như bóng hiện trên ruộng, nên lom khom mà đi vào huyệt thì tốt, sơn mạch xộc thẳng vào huyệt là đại kỵ, thường sinh ra yêu khí. *Minh đường: Minh đường là nền đất trước huyệt, có núi vây quanh, có sông triều về, sinh khí tụ họp. Minh đường nên vừa phải, tránh có sa nhọn, có sơn mạch chọc thẳng vào, có nước xối thẳng vào.*Triều sơn: Là núi to lớn và ở xa, đối diện với huyệt, thường bị nhầm với Án sơn là núi nhỏ ở gần, đối diện với huyệt, triều sơn có hình con rắn bò là kỵ, người trong huyệt khó siêu thoát.* sa sơn: Núi xung quanh huyệt. *Chu tước: Là một loại sa sơn ở trước huyệt, thành gò đống, nếu chạy tán loạn, lại lởm chởm, là tối kỵ.)

Thấm thoắt năm ngày trời liền, đê ban ngày cứ dựng lên, thì đêm đến lại có nước dâng làm đổ, dựng mãi không xong, tốn biết bao nhiêu sức người sức của vào đó vẫn không được việc gì. Nhân dân và quan quân đều mệt nhọc, ta thán trách cứ.

Quan Hộ Đê nói:

– Thưa thiếu chủ, chắc là do thủy thần phá, hay là cứ ra cầu cúng xem sao?

Đạt trầm ngâm hồi lâu, rồi bèn sai chúng chuẩn bị bàn cúng, nhưng không có các thức trâu bò như bình thường, chỉ có đồ chay và hương hoa. Đạt đứng trên bờ sông trước miếu, thắp ba nén hương, khấn:

– Bớ thủy thần, ngài được xung tụng làm thần, trông coi sông lớn, kể ra nên làm ơn làm phúc cho dân trăm họ được nhờ thì hay hơn. Trong một năm trời, chẳng thể nào chăn ra được đôi trâu béo tốt, bốn con bò cái, mà năm nào ngài cũng lấy lộc, không được thì phun mây nhả mù, khiến cho dân phải sợ, có quá lắm không? Tôi phụng mệnh nhà nước đi sửa sang lại con đê này, nếu ngài có lòng yêu, xin phù hộ cho được việc.

Nói rồi lại thúc lính đi đắp đê như trước.

Lại nói thủy thần dưới sông nguyên là hồn phách từ thời nhà Đinh, chết trận rồi bị táng vào mộ, nơi đặt mộ lại nhằm ngay vào một huyệt kỵ độc, có thủy khẩu xối vào, lại có các điềm hung khiến cho người trong huyệt không siêu thoát được, thành ra ở lại huyệt ấy luôn trải mấy trăm năm, lâu ngày ngấm nước sông Giang mà thành yêu quái dưới nước, thường hiện thân là con thuồng luồng, xưng là thủy thần, hàng năm ăn cúng tế.

Bấy giờ Thủy thần dưới sông, nghe lời khấn của Vu Đạt, giận lắm, nói với bọn thủ hạ:

– Cù Trọng Mậu đã chết rồi hay sao mà Lục huyện lệnh lại sai thằng trẻ ranh miệng còn hôi sữa nào đến đây? Dám nói lời xúc xiểm thóa mạ ta ư?

Nói đoạn sai bọn tôm cá thủy quái dưới sông cùng lao ra húc thẳng vào đê luôn, không cần phải chờ đến trời tối. Dân phu và quân lính bấy giờ đứng lố nhố chuyển gạch trên đê, thấy nào là giao long cá sấu, cho tới các loài các hung ác ghê sợ cùng lao ầm ầm tới thì kinh hãi, rớt cả xuống sông, bị cá lao vào xé xác ăn thịt có đến mấy chục người, còn lại thoát được thì bỏ chạy tán loạn hết. Bọn rùa và bọn giáp xác có vây vảy cứng lao ầm ầm vào đoạn đê mới hàn, khiến chúng rụng hết,công sức lại thành xe cát dã tràng, lần này chẳng những tốn của, lại còn hao người.

Đạt thấy thế giận lắm, lại sai dân chúng đi nấu vôi chín để sẵn, rồi cho quân ra dựng đê. Thủy thần sai thủ hạ ra phá, Đạt chờ cho chúng đi lại gần chân đê thì sai quân lính đem thả vôi xuống dưới các đoạn chân đê mới hàn, nước sôi lên ùng ục, tôm cá chết nhiều như ngả rạ, phải kéo đi hết, đê lại hàn được thêm một đoạn.

Thế rồi lại sai thợ lặn giỏi, thợ săn giỏi, phải nai nịt khí giới, túc trực ở các chân đê mới hàn cả ngày lẫn đêm đề phòng yêu quái.

Thủy thần thấy thế, làm phép rồi bay vút lên trời hóa thành con rồng, đoạn phun mây mù khắp nơi, phút chốc mưa đổ như xối, bọn phục binh trên bờ và ở các chân đê dầm mưa cả đêm không ngớt, kẻ nào kẻ nấy đều mệt nhọc rã rời, kế đó hôm sau lại có bọn thủy quái tới phá đê tiếp. bấy giờ quân và dân đều khổ sở quá không thể chịu được, quân lính nhờ quan Hộ Đê xin với Vu Đạt nên xuống nước hạ mình, tới miếu khấn vái thủy thần cho yên chuyện, để làm xong công vụ thì thôi.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.