Thu Linh kể xong câu chuyện, bật khóc nức nở như mưa, Trang Páo thấy động lòng, vô thức lại ôm lấy nàng ôn tồn vỗ về, rồi nói:
– Thật là đáng thương, nơi ở đã đến mấy trăm năm trời từ thời tổ tiên ông bà mà sớm muộn bị người ta tới tận diệt, trời đất thật là bất minh. Nhưng tôi chỉ là người thợ săn, tôi làm gì cho nàng được bây giờ?
Thu Linh mặc cho Trang Páo vỗ về an ủi, nắm chặt lấy tay chàng, nói:
– Em ăn nằm trong rừng đã nhiều tháng nay rồi, không phải không để ý. Thú rừng đều biết đấy, chàng là người dũng sĩ, lại có tính công bằng, lại dám chịu trách nhiệm, có thể làm nên công nghiệp được, những bọn thủ du ở đây, chỉ có khí phách của một mình chàng là nổi bật lên mà thôi. Nếu chàng hết lòng, em xin giúp chàng lập nên quân đội, chỉ mong khi nào đã được vẻ vang rồi, thì giúp em một tay lấy lại mồ mả tổ tiên.
Páo nói:
– Xưa nay quan lại bản mục chăn dắt thổ dân không đến nỗi tàn tệ, người miền ngược cũng chẳng tới nỗi khổ sở, nếu tự lập nên, là chống trái với pháp luật.
Thu Linh lại bảo:
– Ai có bản mục người đấy, dòng giống nào có tục lệ riêng người đấy. Người miền xuôi cậy chúng là bọn có học thức, vẫn xem thường các chủng tộc khác loài với chúng, người miền ngược chúng chỉ xem là mán mọi, bắt cống nộp thổ sản, để yên cho sống trong rừng rú thôn bản, cũng chẳng hại gì đến chúng, nếu có hại là chúng diệt trừ ngay, còn không thì chúng để giáo hóa theo tục của chúng, nhưng không bao giờ để cho ngang hàng. Chàng xem thử trước nay có ai ở miền ngược xuống dưới xuôi mà được trọng dụng chưa? Còn như bọn em là người Hồ, còn bị tàn tệ hơn. Lĩnh Sơn là cái nước đã lập mấy trăm năm, vậy mà vì thiếu nơi đóng quân chúng liền đánh chiếm lấy, thẳng tay giết hết cả tông tộc người ta, chúng chỉ xem người Hồ như là loài động vật không hơn không kém mà thôi. Mình giữ đất của mình, cũng không phạm tới đất của chúng, nhưng nên được tự chủ. Có đâu sống lay lắt nhờ ơn huệ của người ta, để khi người ta vui thì thái bình thịnh trị, khi người ta giận thì phá núi san rừng, việc sống chết cho tới quyết đoán mọi thứ, đều phải theo ý người ta cả?
Páo nói:
– Thế của chúng ta có bao nhiêu? Liên Sơn này có thể dùng việc binh được không?
Thu Linh đáp:
– Liên Sơn có sáu núi, chứa được đến năm vạn. Binh pháp nói quân công thành không gấp mười lần quân thủ thành thì công không được, quân dưới thấp không gấp năm lần quân trên cao thì đánh không xong, xét quân trong châu này làm gì mà đánh nổi nơi đây? Khi xưa có Nùng Trí Cao* là tù trưởng người Tày, cũng giữ một đất Tư Lang, nắm lấy các động mà lập riêng, đắc tội với vua mà vua không làm gì được, sau đó nhờ vậy mà lấy được Đại Lịch tự lập làm vua, khiến Đại Việt phía nam, Đại Tống phía bắc đều khiếp đảm, công nghiệp rực rỡ như thế lập thành đều là do nắm lấy lợi thế từ trên cao nhìn xuống đấy! Chỉ cần chàng cốt sao huy động được lòng người trong bản làng, còn việc tổ chức quân đội, em tài hèn cũng xin giúp rập.
Páo nói:
– Trong châu quận này thì chắc là không làm gì được ta, nhưng nếu làm lớn mà đánh động, nay mai triều đình phát binh đến, thì biết chạy vào đâu?
Thu Linh đáp:
– Bọn Lĩnh Sơn làm loạn chiếm núi mở đất, nhưng khí số của chúng đã hết rồi, triều Lý không thể nào vực dậy được nữa, anh hùng, tri thức cả nước có ai mà không biết? Nay ta tự lập lấy quân đội, tỏ ra ý chống với Lĩnh Sơn, tất triều đình phải nuôi ta mà kình giữ, tới khi ta đánh được Lĩnh Sơn rồi, đó là lập công lớn với nhà nước, thì có ai bắt tội nữa? Khi đó chắc là vui lòng đặt ra châu thú cho chàng tự quản chế lấy, nhân dân an nghiệp yên vui, nhưng ta cũng có sự tự chủ, có chức có quyền bảo vệ được dòng tộc của ta, đó chính là sự vẹn toàn.
Páo nói:
– Nàng nghĩ thật là sâu sắc, liệu được xa như thế đấy.
Thu Linh cười e ấp, tự trút bỏ y phục, bước lại hầu hạ Trang Páo, hai người giao hoan với nhau, vui sướng không thể nào tả được.
Đến sáng ngày hôm sau bọn phường săn dần dần tỉnh lại, đã thấy Trang Páo ngồi ngay chính diện giữa nhà, Ngũ Thu Linh đứng hầu bên cạnh, thần thái uy nghi rực rỡ, mặc áo y trắng toát, nhìn như thần tiên giáng thế, khác hẳn với thường ngày hôm qua, chúng đâm ra đều e dè sợ sệt. Páo nói:
– Ta và quan cai trị dưới đất xuôi là tộc giống khác nhau, tất cái bụng cũng không giống. Bọn chúng nào có xem ta là người cùng tộc với chúng được đâu? Liên Sơn này có thể tự lập riêng được, không nên chặt lấy gỗ rừng, bắt con chim rừng, cống xuống cho quan thú Gia Lâm nữa. Ta được thần nhân giúp sức, đêm nằm mơ thấy có sao rơi vào mồm, ngày ngủ dậy có thần tiên hầu bên cạnh, muốn tự giữ lấy, sau này nhất nhất các người, đều trở thành tù trưởng giàu mạnh, bụng các người thế nào?
Bọn phường săn như mê như mị, không biết nhiều đến việc chính trị, chỉ thấy sự uy nghi của Páo thì nhất loạt nghe theo. Từ đó Páo về lại làng, Thu Linh không biết bằng cách nào mà có, cứ lâu lâu vài ngày lại đem theo vàng thỏi về, Páo dùng vàng đó nuôi quân, lại vốn có sẵn tính cách anh hùng, trước nay người trên bản đều sợ, người theo Páo về rất là đông. Páo lập ra quân đội, Thu Linh bèn dạy cho chúng tổ chức quân như ở dưới xuôi, lại dạy phép binh cho chúng, nên quân của Páo có kỉ cương khác rõ, dần dà lớn mạnh, liền đi tiến đánh các động mán ở lân cận, đánh đâu được đó, Páo dùng võ lực đánh xong rồi thì Thu Linh dùng văn thuyết khách thu phục người ta, nói về sự được mất, các tù trưởng ở các động đều vui vẻ nghe theo, dần dần thống nhất được hết các bộ tộc ở dãy Liên Sơn, từ đó khởi nghiệp trở nên hùng mạnh. Thu Linh xin Páo đánh xuống dưới xuôi cho rung động, Páo liền cho quân tiến phát. Xưa nay các thành ở gần đây đều cậy là tay chân nanh vuốt của nhà họ Lục, lại xem thường bọn người dân tộc hiền lành khù khờ không biết gì, việc binh đều kém, Páo đánh được ba thành, cắt người ở lại giữ thành, tịch thu biên tàng, không hại tới dân miền xuôi trong thành, rồi trở về. Chiến công thật là lừng lẫy, cơ nghiệp thật là vững vàng, trước sau chỉ có mấy năm, đã làm vua một cõi. Páo phát tích ở Thổ Chu, người vùng ấy gọi là Vua Thổ Chu.
(*Nùng Trí Cao: Thời nhà Tống đặt ki mi chế, cho các sắc tộc hay các bộ lạc tự quản trị địa phương của mình, tuy nhiên thuế khoá hay nhân lực vẫn được kiểm soát bởi chính quyền trung ương, có nhiều quan lại vì lợi dụng việc đó mà tư lợi, đàn áp các dân tộc. Nùng Trí Cao một tù trưởng người Tày, nổi dậy làm loạn với hy vọng là các tộc Tày, Nùng, Tráng sẽ giành được sự độc lập như các tộc khác đã làm. Trí Cao phát tích ở châu Quảng Nguyên (ngày nay là tỉnh Cao Bằng), vùng đất này cả nhà Lý và nhà Tống đều tuyên bố chủ quyền, nhưng dân tộc ở các vùng này cống nạp cho phía nhà Lý nhiều hơn. Cha Trí Cao là Nùng Tồn Phúc làm Tri châu Quảng Do, thống nhất các vùng đất ở Quảng Nguyên rồi khởi binh đánh phá khắp nơi ở Đại Tống và Đại Việt. Lý Thái Tông giận, thân chinh đem quân đánh, giết Tồn Phúc và con là Trí Thông, bắt toàn gia của Nùng Tồn Phúc xử tử. Vợ của Tồn Phúc là A Nùng đem con trai là Trí Cao mới có mười bốn tuổi chạy thoát. Khi Trí Cao lớn lên thì là người vũ dũng, có nhiều can đảm và mưu lược, bèn tập hợp lực lượng trở về lấy châu Thảng Do (gần châu Quảng Nguyên) lập ra một nước gọi là nước Đại Lịch. Lý Thái Tông sai tướng lên đánh, bắt được đem về Thăng Long. Nhưng vua nghĩ trước đã giết cha và anh, nay thương tình không giết, tha cho về và lại phong cho làm Quảng Nguyên mục. Sau đó Nùng Trí Cao vào triều yết kiến, được vua Thái Tông gia phong cho tước Thái bảo và cho thêm 3 động là động Lôi Hỏa (nay ở tỉnh Quảng Tây), động Bình An, động Bà Tư, và châu Tư Lang (nay là các huyện trong tỉnh Cao Bằng). Được vài năm, Trí Cao lại nổi dậy không thần phục nhà Lý, chiếm giữ đất của Đại Việt là động Vật Ác (nay đã thuộc về Quảng Tây) rồi lập nước Đại Nam. Lý Thái Tông sai Quách Thịnh Dật đi đánh, Trí Cao tỏ ý không dám phản nước Việt nữa mà sẽ lập nghiệp ở Trung Quốc, Thịnh Dật liền trở về. Trí Cao sau đó đánh sang Châu An Đức (Trung Quốc, thuộc lãnh thổ nhà Tống) rồi dựng Nam Thiên quốc. Châu Quảng Nguyên rất phong phú về khoáng chất như vàng, bạc và chu sa, vì thế mà các thương nhân người Hán từ Quảng Đông hay đến để giao thương. Nhờ thế Nùng Trí Cao có đủ tài lực và nhân lực để gây dựng nên một đội quân hùng mạnh. Vài năm sau Nùng Trí Cao lại nổi dậy lần nữa, tự xưng là Nhân Huệ Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Nam. Để tăng thêm thanh thế, ông xin phụ thuộc vào nhà Tống, Hoàng đế Nhân Tông nhà Tống không cho. Để đạt mộng ước dựng một vương quốc tự trị cho tộc người Tày, Nùng, Tráng, Trí Cao bèn đem quân sang đánh Tống. Ông đánh lấy Ung Châu, rồi sau đó chiếm cả thảy được 9 châu ở đất Quảng Đông và Quảng Tây. Tại Ung Châu, Trí Cao chuẩn bị thuyền bè với ý định đánh chiếm toàn Quảng Châu, để dựng kinh đô nước Đại Nam của người Tày, Nùng, Tráng. Nhà Tống sai quân đến tấn công, nhưng đều bị Trí Cao đánh bại. Nhà Tống lo sợ. Lý Thái Tông dâng biểu sang nhà Tống xin mang quân phối hợp đánh Nùng Trí Cao. Khi quân Đại Cồ Việt sắp vào biên giới, tướng nhà Tống là Địch Thanh can Tống Nhân Tông rằng: “Có một Nùng Trí Cao mà đất Lưỡng Quảng không khống chế được, lại phải nhờ quân ngoại quốc vào đánh giúp. Nếu có ai nhân đó mà nổi loạn, thì làm thế nào?” Vua Tống nghe lời bèn sai các tướng Dư Tĩnh và Tôn Miện đi đánh Nùng Trí Cao và sai sứ nói với Lý Thái Tông rằng không cần quân Lý giúp. Dư Tĩnh đánh mãi không được, nhà Tống lấy làm lo. Nhà Tống đành cầu xin viện trợ của nhà Lý, vua nước Việt lại đồng ý và sai binh đi sang. Lúc đó thì Trí Cao dâng biểu xin lĩnh chức Tiết độ sứ Ung Châu và Quý Châu, vua nhà Tống đã toan thuận cho, Địch Thanh lại can không nên chấp thuận và xin đem quân trực tiếp đi đánh. Địch Thanh là một đại tướng có tài, nhiều kinh nghiệm hành quân, đã mang ba vạn quân đóng tại Quế Châu. Để có thể chống với cách hành binh thần tốc của Nùng Trí Cao, Địch Thanh mang theo đội kỵ binh Phiên Lạc của Tây Hạ nổi tiếng với tài di chuyển trên đồi núi như trên đất bằng. Địch Thanh ra hợp quân với Dư Tĩnh và Tôn Miện rồi hội các tướng lại cấm không cho ra đánh nhau với Trí Cao. Bấy giờ có quan Kiềm hạt tỉnh Quảng Tây là Trần Thự trái tướng lệnh đem quân đi đánh bị thua, Địch Thanh đem chém đi, rồi lệnh cho quân nghỉ 10 ngày. Quân đi thám biết chuyện về báo Trí Cao biết. Trí Cao tưởng là quân nhà Tống không dám đánh, bèn không phòng giữ. Nhân đêm tối, Địch Thanh cho quân chiếm đèo Côn Luân (gần phủ Nam Ninh). Đây là một cửa ải sống còn của Nùng Trí Cao. Từ đó Trí Cao thất thế. Sau đó tiếp tục là cuộc giao tranh ở phía bắc Ung Châu, trong trận này, Địch Thanh có khoảng 2 vạn quân, Nùng Trí Cao có khoảng 1 vạn quân. Lúc đang đánh nhau, Địch Thanh đem quân kỵ đánh hai bên tả hữu áp lại, quân của Trí Cao tan vỡ, tướng dưới quyền là Hoàng Sư Mật cùng 57 người tử trận. Quân Tống đuổi theo giết hơn hai ngàn quân của Trí Cao. Ông đốt thành bỏ chạy. Tháng 10 năm 1053, Trí Cao sai thủ hạ là Lương Châu đến cầu cứu Đại Cồ Việt. Lý Thái Tông sai Chỉ huy sứ Vũ Nhị đi tiếp ứng cho Trí Cao. Nhưng quân Lý chưa tới nơi thì Trí Cao lại bị Địch Thanh đánh bại, phải chạy trốn sang nước Đại Lý. Quân Lý rút về. Năm 1055, thời vua Lý Thánh Tông ở Đại Việt, Đô giám nhà Tống là Tiêu Chú lại theo đường Vân Nam đánh úp, bắt được mẹ Trí Cao là A Nùng, em Trí Cao là Trí Quang, con là Kế Phong. Quân Tống lại mộ những người cảm tử vào đất Đại Lý để lùng tìm Trí Cao. Bấy giờ Trí Cao đã yếu thế, người nước Đại Lý vì ngại gây hấn với nhà Tống nên đã bắt Nùng Trí Cao chém chết, mang đầu đem nộp nhà Tống. Nhà Tống giết luôn gia quyến của Trí Cao. Mặc dù sự quật khởi của Nùng Trí Cao, với ước mơ dựng một vương quốc độc lập cho dân tộc Tày, Nùng, Tráng đã không thành công, nhưng người Tày, Nùng, Tráng đã tôn ông như một nhân vật cực kỳ anh hùng, gọi ông là “Vua Nùng” (Vua Nông) và dựng miếu thờ. Ngày 3 tháng 3 hàng năm, kỷ niệm về Nùng Trí Cao, là ngày hội chính của dân tộc Tày, Nùng, Tráng. Hiện nay còn di tích thành Nà Lữ, nơi ông đóng quân, ở gần thành phố Cao Bằng. Sau khi ông mất, vua Lý đã sắc phong cho ông là Khâu Sầm Đại Vương. Đền Khâu Sầm (Kỳ Sầm) Đại vương thờ Nùng Trí Cao vẫn còn ở tỉnh Cao Bằng. Lễ hội đền Khâu Sầm vẫn được tổ chức hằng năm vào ngày 10 tháng giêng. Nùng Trí Cao được thờ chung với Đinh Tiên Hoàng tại Đền Phja Đeng thuộc xã Cường Lợi, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn, thể hiện sự giao thoa văn hóa giữa cộng đồng người dân tộc Tày, Nùng với người Kinh.)