Quân bại trận về tới nơi, Lục Nghị nghe tin thì lập tức qua dinh thăm con trai, thấy Lục Báo nằm trên giường trọng thương, Nghị im lặng không nói gì cả, chỉ lặng lẽ trở về.
Nghị gọi Trọng Mậu và Hàn Chương tới hỏi việc. Hai người thưa lại hết mọi chuyện ở Liên Sơn, Mậu nói:
– Giặc Thổ Chu năm nay thế rất mạnh. Trong trận tôi có nhìn ra được yêu khí, không biết là giống loài nào trà trộn vào đất Mường, chính nó sai khiến binh sĩ, nhưng mà việc đã lỡ rồi, lại đã mất thế, trở tay không kịp nữa, đành phải thu binh, xin quan nhân trách tội.
Nghị nghe xong thở dài, đáp:
– Ta đã biết rồi. Triều đình chắc cũng đã biết việc này, ta sẽ phân xử sau.
Đoạn trở về sai thả các tướng quan giữ ba thành trì bị mất ra, không trách tội nữa. Kế đó sai bọn học sinh thảo sẵn tờ khải và tờ trình để tâu về triều đình xin tội. Quả nhiên ít ngày sau, triều đình có chiếu trách tội Lục Nghị thất trách việc binh, may nhờ trong triều có quan Thái sư nâng đỡ cho nên không bị bắt tội, chỉ phạt chiếu theo lệ. Các người trong công đường đều nín lặng chờ Nghị trút giận nhưng Nghị cũng không nói gì cả. Hơn tuần lễ sau, Nghị lại qua thăm, thì vết thương của Lục Báo đã bớt, có thể ngồi dậy ăn uống, đi lại nhẹ nhàng được, lúc bấy giờ Nghị mới sai người tới bắt lên nghị đường hỏi tội, bọn Cù Trọng Mậu đều phải lên theo hầu.
Báo đi chưa vững, vào nghị đường phải có người dìu đỡ, Nghị không cho ngồi cáng, bắt quỳ, rồi trỏ vào quát:
– Việc động binh là việc lớn, khi đi mày hăng hái thế nào, thề thốt những gì? Nếu theo phép, nên xử mày thế nào? Mày nên ăn nói sao với các bậc có con đã chết ở chiến trường?
Báo cúi đầu nhận tội, Nghị sai quân đem ra đánh hai mươi hèo, các quan sợ Báo thương chưa lành, bị đánh hèo chắc là chết, xúm lại xin xỏ mãi.
Lúc đó lại có con trai lớn là Lục Tần mới đi nhậm chức trong Mật Khu Sứ ở kinh đô về cũng cùng xin khóc kêu cho em, Nghị mới thôi, nhưng phạt thu hết cả binh lính người hầu, bắt ở trong nhà đường một tháng không bước ra ngoài, cho tới khi vết thương khỏi hẳn thì ra chịu đánh. Báo không phục, nói:
– Con làm hỏng việc thì xin chịu tội theo phép, khỏi cần cha dung thứ. Nhưng thưa với cha, đến quân sư cũng không chống được giặc, cha bảo con chống giặc thế nào? Nếu cho là con vô năng, xin mời triệu Vu Đạt về cho hắn đi bình giặc. Nếu hắn đánh được bọn giặc này, con chịu đòn hèo cho tới chết cũng cam.
Nghị cười mỉa, nói với Trọng Mậu:
– Thầy bênh cho nó, thấy nó quay sang cắn trả thầy chưa?
Mậu vẫn khẩn thiết xin cho Báo, Nghị nói:
– Thằng nhõi con ngang tàng hống hách, không gia hình cho nó thì nó chưa biết sợ đâu, thầy khỏi cần xin xỏ.
Nói rồi sai quân nọc ra đánh. Báo hai mắt đỏ kè, không hề xin một tiếng, cắn răng gồng chịu. Trọng Mậu và Lục Tần đều nói nhỏ riêng với bọn binh sĩ đánh nhẹ tay. Chịu được tám hèo lớn thì Báo thịt da nát bấy, vết thương cũ rách toạc, đau đớn chồng chất tới ngất lịm, cũng không kêu một tiếng, người đời đều cho là gan lì. Bọn lính không dám đánh tiếp, Nghị sai đem cáng về phòng riêng khóa lại, chỉ có một con tì nữ đưa cơm còn lại đem người hầu đi hết, hình phạt thật là nhẫn khốc.
Kế đó lại hỏi tới Trọng Mậu:
– Việc nước là việc lớn, tôi giao quyền giám quân cho thầy, giám quân là để coi xét tướng soái, cốt để thầy trông nom cháu, vậy mà thầy để nó tự chuyên làm cho mang vạ. Bây giờ triều đình trách tội, thầy thấy thế nào?
Mậu đáp:
– Giặc thật quá hùng cường, tôi cũng vô năng không thể chống được, đó là lỗi ở tôi.
Nghị nhân đó trách tội Mậu, bắt Mậu đi thu thuế trong dân xã, đường đi cũng cực khổ. Các tướng thấy cả danh vọng như Trọng Mậu mà cũng bị tội, ai nấy đều sợ hãi, sau làm việc gì cũng cẩn thận lắm. Cả bọn tướng thuộc lần ấy gần hai mươi kẻ, còn sống trở về có mười ba, đều bị tội hết, nặng nhẹ có khác, chỉ riêng mình Hàn Chương là được khen thưởng. Nghị cho tiền bạc thăm hỏi các nhà có quân sĩ bị chết, việc đó rồi dần thôi, cũng không nhắc gì tới chuyện đi đánh nữa.
…
Lời bàn:
Lục Báo có dũng nhưng vô trí, thật là ngu si mà lại cậy quyền. Nếu khéo nghe lời Trọng Mậu thì dù có không thắng được giặc mạnh, chắc cũng không đến nỗi thua đau hai trận tới mức trọng thương mà trở về, suýt nữa còn bị giặc hại. Lục Báo đến cả thầy cũng không nghe làm cho hỏng việc, chẳng bằng Vu Đạt nghe lời một viên quan hộ đê nhỏ bé vô danh mà được nên việc, nên mới một việc thì thành, một việc thì không. Người trong công đường xét việc Vu Đạt làm là dễ, việc Lục Báo làm là khó, thực ra là sợ Lục Nghị mà nói lời ấy nhằm muốn bào chữa cho Lục Báo đấy thôi, chứ tài cán phẩm chất đã thấy khác xa như thế, Báo còn muốn tranh với Đạt thế nào được nữa? Tuy nhiên Báo dũng mãnh mà lại quả cảm, dám một mình đi vào vòng giặc đoạn hậu cho quân chạy, sau lại dám nhận tội phạt rồi cãi ngang trên công đường, cũng là kẻ có nghĩa khí khái và có tài võ đấy.
Lại nói như việc núi Hồ Lĩnh Sơn, thấy các quận chúa Hồ Ly trên núi ấy ai ai cũng đảm lược, đều kinh lý việc dụng binh giỏi. Ngũ Thu Linh, Ngũ Thu Nguyệt đều là những kẻ ra vào trong trướng mà mưu tính chuyện trên sa trường, như thế thì biết trên núi Hồ Ly cũng dạy phép binh, chắc là do truyền đời từ tổ họ Ngũ Phạn. Thu Linh nắm quân trong tay, dù chỉ là lũ mán mọi ô hợp, vẫn luyện ra quân lấy được thành trì, Thu Nguyệt ở bên chỉ bảo cho Trần Cao Vân, mà sau Vân làm tới Hổ Hầu tướng, chúng không thể xem thường được. Vậy mà cuối cùng Lĩnh Sơn như thế lại để mất vào tay Hoàng Vũ Biên, tức phải biết Hoàng Vũ Biên thật là kẻ tinh tường nghề võ bị. Biên là sao Cơ giáng thế chiếu thành, cầm tinh con Báo, là Cơ Thủy Báo, một bầy hồ ly gặp phải con Báo lớn thì chống thế nào lại được, nên mất nước cũng phải. Hiềm là cái nước đã ba bốn trăm năm, mà bị Biên chóng vánh lấy được, cũng đáng thương. Bị lấy mất nước, Hồ ly đi tứ tán mong phục thù, riêng có Nhị quận chúa Ngũ Thu Hương lại đi theo Hoàng Vũ Biên, tôn giặc làm thầy, đó là nghĩa lý gì? Bảo Thu Hương bất hiếu, chắc là không phải.
Xét ra bọn Hồ thật có bản lĩnh, nhưng mà sao không dùng bản lĩnh ấy đi lên, lại đều lập thân bằng cách ti tiện như thế. Như Sao Tâm là Tâm Nguyệt Hồ giáng thế, chính là Mẫu Tổ Thiên Gia Môn Xuân Nguyệt Hồ Ly, cũng gian dâm với tướng của Minh Cảnh doanh là Nguyễn Tử Du, khiến vợ Tử Du hận mà chết. Về sau nhân Tử Du bị chết mà cướp cả nước Minh Cảnh, lập nên Thiên Gia Môn, trở thành Tổ Mẫu. Rồi tới Ngũ Thu Nguyệt lang chạ cùng Trần Cao Vân, chấp nhận chia chồng với người ta, dùng sắc mê hoặc, mà cuối cùng nhờ tựa mệnh với Cao Vân thành danh, cũng được thành Thần. Rồi giờ tới việc Thu Linh bán thân cho người Mán Mọi, lợi dụng lấy binh lực người ta, mà mưu việc riêng, hết thảy đều bị người đời ấy cười chê. Hồ làm như thế, bởi loài ấy có trí thuật, lại có sắc thuật, nòi Hồ thì giống cái lại đều xinh đẹp vô cùng, loài người không sánh nổi bằng, nên chúng biết dùng lấy ưu thế ấy mà chiếm lợi về mình, lâu ngày thành nếp rồi quen cái thói. Về sau thì loài Hồ bị diệt cả, nhưng bởi cái tiếng ấy, nên hễ ai giật chồng người ta, hoặc quen thói gian giảo đa mưu, đều bị gọi là Hồ Ly tinh.
Bàn về Lục Nghị cũng là người giỏi, biết dùng binh là việc dữ, vậy mà một việc hung hiểm như đi vào nơi đất giặc, lấy lại thành trì bị mất, lại đi giao cho con còn ấu trĩ để thử tài. Việc ấy nên để đại tướng cầm quân, giao cho con làm phó tướng đi theo để học tập thì được. Nghị cũng biết lo xa, để Trọng Mậu đi cùng, nhưng nuôi con bao nhiêu năm không biết tính con quật cường hay sao? Lại không biết Trọng Mậu cả nể hay sao? Quyền chia không rõ, cuối cùng dẫn tới hỏng việc, bị triều đình trách tội thất trách, cũng đáng lắm. Còn như Trọng Mậu cũng đâu phải tay thường, nếu Mậu được tự chuyên quyền binh thì dễ đâu Thu Linh nuốt được đến hai lần? Mậu thân làm quân sư, được phó thác công việc mà cuối cùng vì nể nhà chủ, lại không cương quyết được với thiếu gia, dẫn đến tai họa thì bị tội là đúng rồi, còn nói gì do giặc mạnh nữa?