Vu gia liệt truyện

Chương 69



Vu Đạt hết sức lo nghĩ, cứ hầu hạ bên giường, rồi chợt nghĩ tới bèn gọi Trịnh Giác Tú đem Tri Thời Gương đến, kế đó làm đàn cầu, lòng hết sức thành khẩn, thắp hương trước gương thần rồi hỏi:

– Việc của Cù sư phụ thế nào? Liệu có cứu cho qua được không?

Đạt cũng chẳng mong sự linh ứng, nhưng bất ngờ chiếc gương rung lên, viền gương nổi đó, rồi một màu xanh mát lan tràn mặt gương. Giác Tú nói:

– Đây là điềm lành đấy!

Đạt nghe thế càng thêm hy vọng, lập tức quay trở lại trướng, sai bọn đồng cốt trong quân đến thiết kế lên một đàn tràng cầu khấn. Đạt cũng học huyền thuật, biết về phép triệu hồi, tuy không giỏi bằng Trọng Mậu nhưng cũng có sự linh ứng, có thể cảm ứng một số nhất định, bèn lập nên đàn tế cầu may. Trước tiên bày trí vật dẫn, kế đó vị trí chủ tự, cho tới vị trí tế đàn đều đủ theo phép học và theo đàn cũ của Trọng Mậu hay lập, lại cho bày đủ mười sáu nến ở tám hướng càn, khôn, chấn, tốn, khảm, ly, cấn, đoài, trong bốn hướng tứ duy là tốn (đông nam), khôn (tây nam), càn (tây bắc), cấn (đông bắc) thì kéo thêm ba cây phướn nhỏ ứng với các màu xanh, đỏ, trắng, đen. Lập xong hệ đàn ấy của thuật triệu hồi rồi đi tới bên giường Trọng Mậu hỏi xin quyết chú. Trọng Mậu đã rơi vào nửa tỉnh nửa mê rồi, hơi thở thoi thóp, nói:

– Ta sống không qua được đêm nay, chẳng tiếc gì một câu thần chú truyền dạy cho ngươi, nhưng ngươi lấy chú ấy, muốn triệu hồi thứ gì?

Đạt nói:

– Con muốn triệu hồi phán quan đại nhân, xin gia ân thêm sinh mệnh của thầy.

Mậu đáp:

– Trong trời đất vạn vận thông linh, thế giới này hay thế giới khác cách nhau một luồng giao cảm, luồng giao cảm ấy đồng tông đồng khí thì có thể thấy biết được nhau, từ trong một điểm của luồng giao cảm ấy mà động ra một khí lớn mạnh, có thể cách biết được tới ba thế giới. Thầy pháp hay dùng thuật triệu hồi, thầy đồng cô dí hay dùng thuật gọi hồn, hết thảy đều bị giảm thọ, do đó huyền nhân làm các phép cầu cúng, đến tuổi sáu mươi là thọ, người trên bảy mươi, đó là người có quyết thuật tu tiên mà làm dài ra sinh mệnh, còn lại huyền nhân căn cơ càng cao, càng tiếp xúc nhiều tông khí ở các thế giới cao xa, tuổi thọ càng suy giảm, cho tới hàng thượng căn u ẩn, vì dùng thuật ấy nhiều mà thọ chẳng đến được bốn mươi tuổi. Bởi rằng, nếu gọi hàng ngạ quỷ yêu ma, hoặc vong hồn tổ tiên, âm dương trái dấu hút nhau, khí lực hút nhau, phải kéo từ sinh thọ của mình ra mà gọi, vậy mà giảm thọ cho tới bốn mươi chín ngày, gọi tới hàng phiên thần, cho tới gọi lên hàng thành thọ, thạch thụ, thần cây, thần đá, thổ thần, giảm thọ cho tới một trăm ngày, gọi tới hàng quỷ thần vất vưởng, mà có oai lực cao lớn, có thể nghiêng sông bể, tạo mây mưa, thọ giảm tới một thời cho tới ba năm, gọi tới hàng quỷ thần mà trên hàng tướng âm, cho tới hàng vương âm, cho tới các hàng bát bộ, thiên la, thọ mất kể tới năm năm, gọi đến các hàng thành hoàng, cho tới thần thổ tắc, cho tới người của sa môn chìm đắm trong các kết giới linh thiêng, cho tới hàng phán quan địa phủ, kế tổn thọ một kỷ mười hai năm, các vị căn cơ a la hán, căn cơ bồ tát đạo, hàng quan sắc cho tới hàng diêm vương, tướng và quan coi giữ các cửa trời, cửa bể, là các vị không thể gọi được, do sinh khí, tông khí của người thầy pháp không đủ để hòa nhập, các vị đó tự hiển lộ. Nay gọi phán quan đại nhân, thọ sẽ bị giảm một kỉ với người biết phép. Người không biết phép, thì chưa giáp mặt đã vong mạng rồi, hãy nghĩ cho thấu đáo.

Đạt nói:

– Ngài phán quan là cha của tôi, tông khí đồng màu, chắc không tới mức tổn hao như vậy. Ngài ấy giữ sổ sinh tử, có thể kéo dài tuổi thọ của thầy dược. Hơn thế nữa, cho dù phải chịu như vậy, tôi cũng muốn vì thầy mà được giảm thọ. Đây là thứ quyết chú huyền thuật sâu xa, có thể nói là giao ước với quỷ thần, người đời sau chẳng ai biết được thuật ấy, xin hãy cứ truyền lại.

Mậu thở dài, nói cho quyết chú thần thánh, ấy là chú Phạm Võng (Phạm võng kinh), chú Tự Minh huyền (Lục tự đại minh thần chú), chú Đồ hình án sát, ấy là các quyết chú của phù thủy, mà không ngoài đâu xa các kí tự văn tự bí mật của Phật giáo Mật Tông, đồ hình Mạn Đà La, đều là các lời truyền từ trên núi Phượng Hoàng, trong đàn tràng tứ duy rộng lớn biến hóa của các Bồ tát.

Đạt có bí kíp, sợ Mậu tắt thở mất thì không kịp, liền dựng đàn mà đi ngay.



Bấy giờ cầu cúng làm phép, quả nhiên có sự linh ứng, chưa hết một cây nhang, phán quan Vu Chấn bèn hiện ra dưới đàn, đi theo là xe ngựa người hầu, đứng trên bài vị, miệng ngậm một chiếc dùi, tay cầm sổ sinh tử, nói:

– Không phải Trọng Mậu, mà là ngươi gọi ta sao?

Đạt chắp tay lậy thưa:

– Thầy Mậu đang chí nguy rồi, xin cha cứu giúp.

Vu Chấn lật sổ xem, nhìn thấy mệnh sinh của Trọng Mậu sắp lụi tắt, nói:

– Quả vậy.

Kế đó xe ngựa mịt mù, tiến về dinh Mậu. Trọng Mậu nằm trên giường, có khí âm tràn vào khắp phòng thì lạnh toát sống lưng, mồ hôi lạnh đổ ra ướt sũng, lại hồi tỉnh được chốc lát, nhìn thấy Vu Chấn thì lạnh người chớp mắt, nói:

– Ngài tới bắt ta à?

Vu Chấn nói:

– Cũng có mối thâm tình, ta đến tiễn ông đi.

Vu Đạt khóc nói:

– Xin cứu vớt cho thầy.

Vu Chấn lương lự, kế lật sổ ra, thì từ trên kiệu bước xuống một bà già gù lưng, tóc bạc trắng như cước, chống gậy đội mão, nói:

– Không nên phạm luật.

Chấn thở dài, lầm rầm niệm chú, trên tay hiện ra một đồng xu, đưa nó cho Vu Đạt rồi bảo đem bỏ vào miệng Trọng Mậu, xong bảo:

– Hắn ngậm tiền này vào miệng thì sống được thêm bảy ngày, nhưng không thể nói được. Nếu trong bảy ngày ấy có phúc tinh chiếu vào, hoặc có sự cải biến lại tính mệnh dưới cõi âm, thì có may sống được chăng? Còn nếu không được thì đã tận mạng, diêm đế cũng không tùy nghi thay đổi sống chết của người được, năm xưa ta cũng đã chết, dùng tới phép của Mộc Du Tử và Tiên Tử cùng lập đàn cho sống tiếp để trả thù, mà cũng chẳng thọ được thêm là mấy, sau cùng phải hóa hổ mà chết. Trọng Mậu cũng như thế.

Đạt nói:

– Thêm một ngày là quý một ngày.

Đoạn bước lại toan vạch miệng Mậu ra nhét vào, Vu Chấn nói:

– Có điều gì hãy hỏi nốt trước đã.

Đạt nói:

– Thưa thầy, còn điều gì căn dặn hay không?

Mậu đáp:

– Ta chết rồi, muốn được chôn ở dưới chân núi Phượng Hoàng, để hưởng ấm hương từ bậc thần linh trên núi, huyệt vị của ta, Du Tử đã chọn sẵn cho từ hai mươi năm về trước rồi. Kế sách chống giặc giữ mình, cứ làm như ta dặn. Nếu Gia Lâm không thể về, nên liên hệ với Triệu Chân, nếu Triệu Chân không thể cưu mang, hãy đầu hàng Ngũ Thu Linh chứ đừng chết về tay Lục Báo. Dù thế nào cũng phải nên sống tiếp.

Nói tới đó thì ho sặc lên, dãi đổ đầy miệng, Đạt bèn vạch miệng ra, rồi đặt đồng xu lên lưỡi. Đồng xu vừa chạm vào lưỡi, cả người Trọng Mậu như hóa đá, lạnh toát từ trên đỉnh đầu trở xuống dưới, hai hàm khép chặt lại rồi như đóng băng, không sao mở ra lại được nữa, tay chân cũng liền cứng ngắc, động vào rất lạnh, chẳng thể vặn vẹo, như người đã chết bị cứng xác, nhưng sờ vào ngực thấy tim vẫn đập, sờ vào mũi thấy hơi vẫn có, Đạt mới yên tâm.

Kế xong lạy tạ Vu Chấn, Chấn đáp:

– Ngũ Thu Linh không sợ lệnh của Phán quan, cũng không sợ Mộc Du Tử, ta đã lấy làm lạ. Về sau thì Du Tử nói ta mới biết, đó là bởi sau lưng nó là thần chủ của Hỏa Nhãn Trịnh Phong, Phong lĩnh hội được huyền phù thuật, là huyền nhân bậc nhất nước Đại Lý, chính là người sẽ lập nên phái huyền phù thuật tại nước Nam. Nếu không thể đánh với hắn, thì có thể nghị hòa cùng hắn, như thế có thể gây dựng được cơ đồ, nhưng phải giữ được thế của mình, chưa đến đường cùng thì không được mềm yếu. Nếu như tỏ ra mềm yếu, giặc sẽ nuốt ta ngay.

Vu Đạt nói:

– Giặc hung bạo như thế, việc đã tới nước này không đánh với nó cũng không được.

Chấn đáp:

– Đây không phải việc riêng nhà họ Lục, mà là công việc liên quan chính trị quốc gia. Trọng Mậu chết bởi tận số, không thể trách kẻ thù. Chẳng có ai thù mãi, cũng chẳng có ai bạn mãi. Nếu đánh nhau với Trịnh Phong thì phải dứt được hắn, sau đó tha cho hắn, để hắn truyền lại hết huyền thuật về nước Nam, đó là thượng kế. Nếu đánh không được hắn, thì phải đầu hàng hắn, để cùng hắn làm chủ huyền thuật nước Nam, đó là Trung kế, còn nếu dai dẳng với hắn, mà lại chống hắn, tất hắn sẽ ngả về họ Lý, khi đó thiên hạ đại loạn, triều đình cũng bị lung lay, đất nước lại rơi vào cảnh máu lửa triền miên, thì sứ mệnh thiêng liêng ở núi Phượng Hoàng cũng không thành được, mà quốc gia lại bị tai biến, sẽ trở thành tội nhân thiên cổ. Hãy trông theo gương của Thiên Gia Môn.

Vu Đạt cúi đầu lạy tạ. Chấn nói:

– Thuật triệu hồi đã biết, nhưng vì thọ mạng, trước khi có truyền nhân, mà xây dựng được vững chắc gốc rễ các sự, thì chớ nên lạm dụng sử dụng thêm nữa, bằng không sẽ đoản mệnh. Làm huyền nhân nên biết giữ gìn khí mệnh như vậy.

Nói rồi biến mất.

Trong đêm đó, ngay lập tức Vu Đạt cho gọi Phan Lâm, Đại Di, Tiểu Di đến trướng, cùng bí mật bàn việc đưa Cù Trọng Mậu về Gia Lâm phụng mệnh.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.