Cứ vậy hễ chơi với Đạt, thì thấy ông khỏe được đôi chút, Đạt mà đi ngủ thì Chấn bế về phòng, ông già liền đau nặng trở lại, cứ vậy vài hôm liền, Chấn lấy làm lạ, bèn đặt Đạt ở trong phòng ông luôn. Tuy đứa bé nhiều khi quấy khóc, nhưng chẳng ảnh hưởng gì tới ông, ngược lại phần nhiều thấy khởi sắc, duy có các vết thương trên người là không khỏi được. Cứ lúc nằm nghĩ vẩn vơ, ông lại nhớ lại cảnh bị người hại mà trắng tay, rồi tấm tức nhìn cháu mà khóc lóc, Chấn và bà vợ khuyên can ông già nhiều lần, nói:
– Ngày xưa nhà ta cũng chẳng có gì, chỉ độ năm, sáu năm trở lại mới nên được nghiệp, giờ mất đi rồi, lại là về như lúc xưa, vẫn vui vầy được thôi, có gì đâu phải tiếc tới vậy?
Nói thế nhưng ông già cũng không nguôi được, mỗi khi âu sầu, các vết nhức nhối do tội hình lại mưng mủ lên đau nhức thêm.
Cho tới hôm nọ, đèn dầu đã tắt, ông già chìm vào giấc ngủ thì thấy có con quỷ đen lù lù hiện lên, lần này đi cùng có hai con quỷ khác, một con miệng đỏ như máu, đó là La Sát, con còn lại nhờ nhờ như bóng người, đó là Vô Tận Ý, chúng gọi là tam quỷ địa ngục, bước vào trong phòng, đến bên đầu giường.
Ông già sợ hãi vùng dậy kêu tha mạng, ba con quỷ nói với nhau:
– Vu Sinh đã tận mạng từ mấy ngày trước, bởi vì trong nhà có phúc thần, nên chưa dám vào bắt tội được ngay. Tới nay đã thọ mạng, lệnh của Thập Điện chẳng thể trễ nải thêm lâu, chắc vẫn phải xin ý?
Chúng bàn với nhau, rồi cùng nhìn vào đầu giường ông già, ông lấy làm lạ cũng nhìn theo thì hóa ra ba con quỷ cùng nhìn vào đứa cháu. Đứa bé đã tỉnh dậy từ bao giờ, đang nhìn trừng trừng bọn quỷ. Chúng lại bảo nhau:
– Phúc thần còn nhỏ, liệu nói có hiểu không?
Rồi con quỷ Vô Tận Ý nói:
– Chúng tôi vâng mệnh tới bắt Vu Sinh, ngài chắc phải biết được, sinh mệnh con người, đều do trời an bài từ trước, chắc không tới nỗi chống chế thánh chỉ của đại vương thập điện?
Đứa bé chẳng biết có hiểu hay không, nhưng từ từ khép mắt lại, chẳng còn nhìn chòng chọc vào quỷ nữa.
Con quỷ La Sát thấy thế, từ từ bay lại sát nơi đứa trẻ, đầu nó trọc lốc, hai mắt trố ra kinh dị, nó phủi tay áo một cái, một quầng đen hình chiếc áo khoác bay ra phủ trùm lấy bọc đỏ bên cạnh đứa bé, kiếm khí từ trong bọc bốc ra sáng chói cả chiếc giường, rồi từ từ bị trùm lấy, đứa bé nằm quay người trận lên kiếm, kiếm khí từ đó vụt tay. Tột Khốc thấy như vậy, xấn tới quăng sợi xích ra, ông già lập tức hồn lìa khỏi xác.
Các quỷ cùng lạy, rồi tan biến hết.
Đêm đó cha Chấn bởi vết thương nặng mà chết chết, sáng hôm sau người nhà mới phát hiện, đứa cháu nội vẫn còn ngủ bên cạnh không biết gì.
Chấn lo việc tang sự, thương cha mà cứ khóc mãi không thôi, riêng có người mẹ trước sau im như tượng, chẳng hề máy môi một câu nào, cũng không rơi một giọt nước mắt, người gần xa đều cười chê. Cho tới khi xong tang sự chồng, bà tắm rửa sạch sẽ, ngồi im trên giường, chẳng nói năng gì, cứ thế mà chết.
Chấn trong một tuần chịu hai đại tang, tâm thần có phần bấn loạn. Mới ngày trước gia đình ấm êm, vợ đẹp hiền dịu, cha mẹ hiền lành, gia nhân trong ngoài, ruộng vườn đầy đủ. Chấn không cần làm gì, chỉ việc ngồi ung dung mà hưởng phúc. Thoáng cái đại họa ập đến xé nát gia môn, nhà cửa của nả tan nát, ông ta lưng ẵm con nhỏ, đau đớn như cắt da xé thịt, tim gan đảo lộn, cả ngày chỉ ngồi thẫn thờ chẳng thiết tha gì, ai hỏi gì cũng không nói không rằng, người ta đều tưởng đã ngã bệnh tâm trí.
Được vài ngày hết tang của mẹ, lúc bấy giờ quan cho người tới đòi, bảo phải sửa soạn lên đường, dẫn quan binh đi tới sông Quy Hóa tróc yêu, mệnh lệnh lập tức thi hành không nên chậm trễ.
Lệnh đến nhưng Chấn vẫn còn đang bệnh, chẳng đoái hoài gì. Người của nha môn đều phân vân bối rối chẳng biết nên làm sao, có người nói với Hà Thanh nên cho thôi việc tróc yêu, nhưng Hà Thanh đã làm tờ trạng tâu bày sự việc, nên buộc vẫn phải làm.
Bấy giờ có người của Lục Nghị là Cù Trọng Mậu tới tận nhà, nói nhỏ vào tai Chấn:
– Ông có còn nhớ lời dặn của quan Cậu (Lục Nghị) không? Thời cơ cho vợ chồng ông rửa được tội nghiệt mà tương phùng đã tới rồi đó, ông còn ở đây giả ngây giả ngốc tới khi nào?
Chấn nghe câu đó thì như bừng tỉnh khỏi cơn mê mị, dần dần tỉnh táo minh mẫn trở lại, chuẩn bị khởi hành.
Đứa con còn nhỏ chẳng biết nương tựa vào đâu, Chấn gửi cho bà hàng xóm họ Lê coi sóc rồi lên đường coi việc quan sai. Bà Lê thị ấy đã già, nhà lại nghèo, Vu Đạt bữa thì có cháo ăn, bữa chẳng có gì, chỉ húp tý sữa loãng, đói nheo cả ngày kêu khóc, thống khổ hết sức.
Lại nói khi Lục Nghị nghe tới công việc của Vu Chấn bèn đi tới An Định, mang theo hai người là Triệu Chân và Cù Trọng Mậu.
Cù Trọng Mậu xuất thân là thuật sĩ, được Lục Nghị đãi trong nhà làm môn khách, tính tình vui vẻ ưa rượu chè kết giao, hay thích đàm luận các việc thế sự, Mậu có tài cầu đảo, lại biết các phép phù thủy, Nghị rất yêu quý. Thường khi có công việc gì liên quan tới lễ nghĩa, nghi tế, đều cho mời Mậu lên công đường giúp.
Còn Triệu Chân ngày xưa làm cướp ở vùng Kinh Môn châu Lạng, là người có bản lĩnh đánh được hổ báo, xưng hùng xưng bá một vùng núi. Băng cướp của Triệu Chân nổi tiếng mạnh tợn, lại hay cướp lấy của giàu chia cho nghèo, đồ đảng đều là bọn ưa việc chính trực nên dân trong vùng rất quý, thường che giấu hành tung cho, vì thế chính quyền cũng ít đụng tới chúng. Về sau Lục Nghị được sai tới làm đề đốc Lạng Châu, trước nhất gọi những người hương thân già cả tới hỏi han công việc, rằng:
– Ở xứ này, ai là người “được”?
Các vị bô lão đều nói tới Triệu Chân, Nghị cho thám tử đi dò biết được bản sắc của Triệu Chân thì đem lòng yêu mến, trước nhất cho gọi Triệu Chân vào, đối đãi ân cần tử tế, rồi dùng lời lẽ chính trực mà kêu gọi. Lục Nghị lại đối xử với dân trong Châu rất có lễ nghĩa, nhà nhà đều ca tụng là quan cha mẹ, Triệu Chân thấy thế, bèn đem đồ đảng theo hàng, được giữ dùng việc binh trong châu, các thủ hạ cũng đều cho vào quân ngũ, thành ra một đội quân riêng rất mạnh ở Châu Lạng, đội quân này giao cho Chân coi y như ngày còn là cướp.
Sau Nghị về kinh, để hai người đó lại ở nha môn, căn dặn bọn họ nếu sau này quan quân đi tới sông Quy Hóa thì đi theo chờ tới lúc thì giúp cho Vu Chấn. Bấy giờ lên đường đi sông Quy Hóa, hai người đều cùng đi theo quan quân, thường hay ngồi ăn uống nghỉ ngơi chung với Vu Chấn. Quan quân nể tiếng của bọn họ, nên đối đãi với Vu Chấn cũng không tới nỗi bạc nhược.
Có lần cùng nhau ăn cơm, Triệu Chân nói với Vu Chấn:
– Quan Cậu nói ông là người lạ trên đời, rất là nể trọng ông nên sai chúng tôi giúp cho ông. Riêng tôi thấy ông không phải người đáng nể.
Chấn hỏi tại sao, Triệu Chân nói:
– Thù giết cha mẹ, cướp tiền tài, đuổi vợ con, không phải là loại thù có thể chịu chung trời đất. Nếu tôi là ông, tôi âm thầm đi giết quan quản giáp, nếu rủi có cơ sự gì, thì chết chung cùng kẻ thù, nếu không giết được nó, thì đi theo phụng hiếu cho cha mẹ, còn nếu được thành công, thì bỏ xứ mà trốn đi, ra sao thì ra.
Cù Trọng Mậu vội bưng miệng Triệu Chân, đáp:
– Nay ông đã làm quan, có còn làm cướp đâu mà ăn nói gàn dở thế?
– Cậu Nghị dùng tôi là bởi tôi trọng nghĩa khí, tôi theo Cậu là bởi tôi trọng Cậu. Làm quan mà như ăn cướp, thì thà cứ làm cướp như trước kia còn hơn. Mũ áo quan này, tôi nào có cần? Tôi chỉ cần thứ này là đủ.
Nói rồi vỗ vỗ lên chuôi kiếm, đoạn hất hàm lên nhìn Vu Chấn, nói:
– Nếu ông dám trả thù, tôi đây tài hèn, cũng nguyện ở trong nha môn ứng hợp giúp sức ông, nếu việc như ý thì ông chớ nói tên tôi, nếu việc có lộ, tôi xin chịu tội, ý ông thế nào?
Chấn chỉ nín thinh không đáp lời, Triệu Chân thấy thế rất là xem thường, cho là kẻ hèn nhát, không nói chuyện với Chấn nữa.
(Lời bàn: Truyện chép về kiếp nạn của họ Vu chắc là một trong các truyện hay của sách này, đạo của quẻ dịch hiện lên ở đó. Trong nhân gian, người ta chìm nổi liên miên trong các sự dụng tính, tranh đấu, từ nhà vua, nhà quan cho tới nhà dân, tựu chung đều chỉ do bị quấn lấy hai việc, là danh và lợi. Trong kinh dịch, phàm hỏi xin hung cát sự việc mưu tính bên ngoài, không quẻ cầu tài, ắt quẻ cầu danh, cũng là ý ấy. Bà già họ Vu trọng danh dự, do đó nài ép con dâu mang thai nối dõi tông đường, để đến nỗi con dâu phải chết, may nhờ được phúc thần nên tiên đến mà cho hoàn sinh, nhưng mẹ con không được nhìn nhau, lại từ đó gây ra đầu mối tai vạ. Bị vạ rồi, lại may có phúc thần, mà có người đến giúp cho khỏi hình ngục, tưởng đâu thế là yên, vậy mà ông già họ Vu trọng tài lợi, để đến nỗi sinh ra thành tâm bệnh. Truyện có đoạn chép “Mỗi khi nghĩ tới việc bị chiếm hết gia sản, căm tức u uất, các vết thương chịu hình lại lở loét thêm ra”, đó là do tâm bệnh mà phát ra thành ngoại thân. Vợ con đều nói rằng năm xưa nhà chẳng có gì, tới nay về lại như cũ không sao phải buồn, mà ông không cam tâm, cuối cùng để đến bệnh nặng phải chết. Nhưng chẳng thể trách ông cụ, người đọc nên biết Vu Chấn là kẻ khác đời nên không lụy tiếc tiền bạc, khi có cũng như khi nghèo, đều chỉ nhởn nhơ chẳng màng tới. Lúc nhà có của, Chấn cũng đâu thèm cố sức làm lụng chi đâu? Nên sau của ấy mất, Chấn không xót. Đó là kẻ đặc biệt, còn cỡ như ông già, ở đời hầu như ai cũng thế mà thôi, không biết rằng vốn dĩ ban đầu sinh ra trên đời người ta chẳng có gì, trừ chuyện sinh tử ra, còn thì được mất cũng đều như vậy mà thôi. Vậy ông già ấy, từ nghèo mà trở nên giàu, tới khi hết phúc thì nghèo trở lại, không những thế, còn đeo thêm tâm bệnh tới nỗi vong mạng, kể cũng đáng thương. Kinh dịch chủ coi về việc họa phúc trong đời, quẻ có sáu hào, trong đó tử tôn tức cháu chắt, được tôn là phúc thần của quẻ, khi tử tôn phát tiết, thì sinh cho thê tài, mà lại khắc chế quan quỷ, khiến nhà có tiền, vợ được thoát nạn, quỷ thần phải kính sợ, bởi vậy quỷ thần lạy mà gọi là phúc thần, thế nhưng dù có phúc thần, cũng chẳng chống được cái nghiệp lực sinh ra từ lòng tham của con người vậy. Người ta tham không biết đủ, thì họa tới như sương thu giết cỏ, khắc xung hình hại vào thân, có phúc thần phò trợ cũng là vô công mà thôi.)
Tip: You can use left, right, A and D
keyboard keys to browse between chapters.