Vu gia liệt truyện

Chương 8



Quan quân đi năm ngày thì tới bờ sông Quy Hóa, bọn đồng cốt trước nhất bắt Chấn dẫn tới miếu, Chấn liền dẫn thầy đồng đi tới miếu của Ma Da ngày trước, thầy vô miếu coi xét, thấy chẳng có hương lửa gì, nói:
– Yêu quái đã bỏ đi. Vẫn nên niêm lại cho nó không còn nơi trốn về.
Thế rồi lệnh cho quân sĩ đập vỡ bát hương, phá bàn thờ trong miếu, xong vẽ các bùa, dán niêm miếu lại, sai hai quân canh giữ ngoài cửa miếu, rồi quay lại mặt sông.
Kế đó thầy đồng liền lập bàn thờ, sai quân lính phong tỏa sông, cánh dân đi đò, đi chợ quanh sông đều chẳng hiểu có việc gì mà ồn ào, tất thảy không được lại gần.
Đàn tràng lập ra, trên bày vẽ các bùa chú chống vong, thầy đồng ở bên bờ sông, đốt hương phù phép, rồi thỉnh ra bên trái của đàn thuyền giấy, ngựa giấy, ngựa gỗ, lại có quân lính gấp bằng giấy vàng, cung tên, thương kích đầy đủ, lễ rất là hậu ngập cả mặt sông. Đàn lập như thế, rồi các thầy khấn vái từ giờ ngọ buổi trưa cho tới giờ tuất, cúng khấn la liệt bên sông, dân chúng hiếu kì đều đứng xem từ xa chật kín.
Vu Chấn thấy làm rầm rộ, lòng cũng hơi lo, bèn hỏi Cù Trọng Mậu:
– Nghi lễ thật là cầu kì, không biết an nguy của vợ tôi thế nào?
Trọng Mậu chỉ cười rằng:
– Phép thuật của bọn này có thể bắt được vợ ông đấy, nhưng chỉ là mấy trò hèn mọn, không thoát khỏi mắt tôi được. Ông chớ lo, không phải tự nhiên mà Cậu sai tôi đi theo, kẻ bất tài cũng có chút nghề, tới đúng giờ sẽ dùng.
Chấn nghe vậy cũng hơi vững dạ, chọn chỗ khuất đốt hương khấn khứa xin bình an cho vợ.
Sang đến giờ Hợi, trời đã tối mịt mà bên bờ sông vẫn còn nhộn nhịp huyên náo chật kín người chờ đợi, đèn đuốc sáng rực như ban ngày. Bấy giờ thầy đồng làm phép, rồi đem thuyền giấy, cung quan, giáo mác quân lính ra đốt, một số bằng gỗ thì bọc bằng da dê thả xuống mặt sông, tức thì các đạo âm binh lần lượt ẩn hiện lên trong đêm, chúng đều mang đồ quân lính, hình hài có đứa giống người, có đứa như quỷ, nhe nanh múa vuốt, hò hét tán loạn, lần lượt lên thuyền đi ra giữa dòng, rồi bắn tên, ném lao vù vù xuống dưới mặt sông. Người trên bờ ai có bén căn thì thấy thấp thoáng bọn chúng, còn đa phần hàng quân lính chỉ việc trông giữ các vị trí đèn, đền, canh gác người dân, không hề thấy gì cả.
Chốc lát thấy mặt nước động lên ầm ầm, mọi người đều biết phép phù thủy của thầy đồng đã linh nghiệm. Âm binh náo loạn khúc sông, vẫn không thấy bóng dáng yêu ma hiện lên, thầy đồng cũng không nóng vội, lại đem tro đốt bùa rắc rải xuống sông, mặt sông hóa ra băng giá phủ lấy, đóng dần từng mảng tràn xuống phía dưới, đột nhiên có một tiếng hú hét vang vọng từ dưới lòng sông lên chấn động, hết thảy mọi người đều nghe rõ mồn một, kế đó có một bóng người trắng như tuyết, bay trồi lên từ dưới mặt sông, gào rít những tiếng ghê rợn. Vu Chấn tức khắc nhận ra ngay vợ!
Lại nói Tứ Nương ngày hôm đó gặp được Lục Nghị, Nghị rút một thẻ gỗ, cầm kiếm chém làm đôi, trao cho Tứ Nương một mảnh, rồi căn dặn cẩn thận các việc, kế bắt phải đi ngay. Tứ Nương sợ tội phải trốn lại về sông Quy Hóa, kế nàng đi vào miếu của mẹ thắp hương, xin ở lại nhưng Ma Da đã hóa mất rồi, cầu cúng không lên được nữa, chỉ còn lại ngôi miếu hoang lạnh lẽo không còn chút khí nào. Tứ Nương không còn nhà để về, chẳng biết nương náu ở đâu, chỉ cứ biết lang thang ở mặt sông, khóc lóc chờ đợi, cũng không dám bỏ đi đâu cả.
Được mấy ngày sau, đột nhiên Tứ Nương nghe thấy tiếng gọi rất lớn bên sông, Nương sợ hãi còn chưa biết sao thì thấy từ trên không có một người bước xuống, hô lên:
– Phu nhân họ Vu ở đâu? Tôi được Lục đại nhân sai tới.
Nương hiện lên coi thì người đó mặc áo nhà quan, khuôn mặt vuông vức, thần thái uy nghi, bước lại gần. Nương thấy là quan quân thì sợ định bỏ đi, người đó giơ một thẻ gỗ lên, với theo nói:
– Tôi họ Cù, tên Trọng Mậu, do Lục đại nhân sai tới, xin chớ sợ.
Nương nghe thế mới an lòng, bước lại lấy thẻ gỗ ra so thì thấy hai thẻ khớp nhau, mới khỏi lo.
Mậu kể việc cha mẹ chồng đều đã chết, Nương nghe thì òa khóc nức nở, kế nói việc Chấn đang dẫn quan quân tới sông. Mậu biết thuật xuất hồn, có thể khiến cho hồn đi được nơi khác, tấm thẻ gỗ đã được yểm bùa chia ra làm đôi giao cho Tứ Nương cầm một nửa làm dấu, Mậu cũng đi cùng quan quân, trên đường đi nhân lúc đêm tối mọi người ngủ cả, thì bảo Triệu Chân canh gác cho, rồi dùng thuật xuất hồn cứ lần theo thẻ mộc mà tìm Tứ Nương, tới nay tìm thấy.
Tứ Nương nói:
– Lục đại nhân dặn tôi cứ ở yên sông này không đi đâu, thì còn gặp được chồng con, nếu bỏ đi nơi khác thì cả đời không gặp được. Ngài dặn có người tới tìm sẽ bày việc, là ông chăng?
Mậu gật đầu, nói:
– Phép thuật của bọn đồng bóng chẳng qua được phép của tôi, phu nhân không cần sợ hãi gì cả, hãy ở yên bên sông này. Khi chúng tới đây, tất chúng cầu cúng khuấy động sông làm cho phu nhân phải lên, tới khi lên thì cùng diệt hết bọn chúng, khiến cho quan giáp phải sợ hãi uy lực của cô, họa may lấy được sản nghiệp về.
Tứ Nương nói:
– Tôi chỉ là hồn tàn, diệt bọn âm binh bằng cách gì, xin bày cho.
Mậu đáp:
– Tôi đã thăm dò, biết hết chiêu của chúng rồi. Tôi đã có đối sách.
Thế rồi đưa cho một cái cục, trông như cục máu long lỏng, có bọc màng bên ngoài, dặn đem theo bên người, khi nào quan quân tới, cắn nuốt lấy cục ấy rồi ra đánh, sẽ có diệu dụng. Kế đó lại dặn dò cẩn thận như thế, như thế.
Đoạn xong thì nói:
– Tôi xuất hồn đi được chẳng lâu, đêm mai tôi sẽ quay lại, phu nhân dẫn tôi đi tới miếu.
Thế rồi tan mất. Tới đêm hôm sau lại đến, Tứ Nương dẫn ra miếu Ma Da, Mậu vào trong miếu, dùng thần chú kết rồi đặt bẫy vào trong ấy, xong xuôi hết việc thì không thấy đến nữa.
Hôm ấy quan quân đến bên sông lập đàn, Tứ Nương thấy có động, chìm sâu xuống dưới lòng sông lẩn tránh, âm binh đi thuyền trên mặt sông bắn tên xuống như mưa, Tứ Nương sợ hãi phải khuất sau các hốc cội tránh tên. Kế đó nước sông lạnh xuống, mặt sông bắt đầu hóa băng, Tứ Nương bị lạnh kinh hãi không trốn được nữa, phải vượt lên trên mặt sông. Cứ y theo lời dặn của Trọng Mậu, phải chờ đến khi tất cả âm binh đều đã trên mặt băng, các thuyền giấy đều đã đứng im không còn dời dịch được, thì mới cắn cục máu.
Đến khi Nương lên tới mặt sông thì đã đóng băng gần hết, thấy các thuyền âm binh đứng yên, bèn đem cục máu ra cắn, máu phun từ trong cục ra đầy mồm, Nương nuốt lấy hết, trong phút chốc thấy hồn nặng như chì, hai con mắt trong suốt, tóc dài ra, vút chân một cái, đã bay vượt lên lớp băng. Nương đảo mắt một vòng, nhìn thấy ngay thầy đồng đang đứng bên đàn làm lễ, bèn lao vùn vụt thẳng đến.
(lời bàn: Cù Trọng Mậu là một thuật sĩ có tiên phong đạo cốt, tinh tường phép thuật, các thầy đồng bình thường chỉ trừ yêu ma nhãi nhép, so với Mậu đều không xem ra gì. Mậu sau này nhận con nuôi, đặt tên là Cù Tử Phạm, dạy cho làm tới Tổ của Huyền Môn, pháp sư thuật sĩ khắp nước không ai không biết. Người như thế trong thiên hạ, nơi nào chẳng có chốn dụng võ? Tiền tài nào có lúc nào phải lo? Người như thế lẽ ra nên thong dong bốn bể, hoặc trên núi cao mở am xây tháp, nhận để tử cúng dưỡng, vậy mà vì sao lại đi làm khách trong nhà Lục Nghị, nhận cơm áo Nghị ban cho, rồi ra sức vì Nghị mà đi lại xa xôi, làm việc không quản vất vả? Kể ra đó là vì cái sự trọng người của Nghị mà Mậu ở chăng? Mối thâm tình của hai người ra thế nào, truyện không thấy nhắc tới, nhưng có thể biết là chẳng thường. Lại nói tới người còn lại là Triệu Chân, Chân không có xuất thân khoa bảng, mà xuất thân từ cướp, chém giết đã quen tay nên thấy việc bất bình nhà họ Vu đã nảy sinh ý muốn đánh giết, đó là việc thường. Tại sao Lục Nghị dùng người như thế? Còn cho coi giữ cả đạo binh từng là kẻ cướp ngày xưa dưới trướng mà không đề phòng thói trộm cướp của Chân? Lục Nghị dùng người cẩu thả như thế, vậy mà Chân dù phản ai, nhất định không phản Nghị. khen cho câu nói khí khái của Chân: “Làm quan mà như ăn cướp, thì thà cứ làm kẻ cướp như trước còn hơn”, chỉ một câu ấy, cũng lộ được lên bản sắc anh hùng rồi. Vào thời nhà Lý mạt vận, nguyên đất Cao Bằng, Lạng Sơn là gốc tích của họ Nùng* ngày trước, mầm mống làm phản vẫn còn. Lại bởi quan lại nhũng nhiễu, ở xa kinh sư che dấu tai mắt thiên tử, tự làm chúa một cõi, tự định ra việc thưởng phạt khiến dân chúng phẫn uất, nên bọn người vùng cao mới tụ đảng làm cướp mà nổi loạn. Khi Lục Thanh Hải về trấn nhậm ở đây thì khéo vỗ về khiến cho đảng giặc cướp đều quy hàng, Hải biết khí khái của người vùng cao nên miễn tội cho họ, ai ngờ sau vì đó mà bị hại, các đảng cướp ở vùng Lạng Sơn vẫn nhớ tới họ Lục vì thế. Tới khi con là Lục Nghị thay cha, lại tiếp tục dùng quân cướp làm môn khách, bọn cướp cũng rất kính lễ với Nghị, đó là duyên cớ. Có thể nói họ Lục thật khéo xử trị, con được cái nhân đức của cha, như thế thì nhân tài theo về bất kể xuất thân, dù cướp hay đạo sĩ, đều không lạ.
*Họ Nùng là họ làm phản, nhiều lần bị nhà Lý đánh, đánh được lại tha, rồi sau phong cho giữ đất này, từ đó phát tích, về sau đem quân đánh cả Trung Quốc, cuối cùng họ Nùng bị diệt, nhưng gốc tích vẫn còn, trên vùng này vẫn có đền thờ).

Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.