Quân đội rút khỏi thành Uất Trì, trong lòng quân sĩ đều thầm mừng sắp được hồi hương, nơi chúng rút quân đã cách xa rừng, lại các xa Thổ Chu, không có ai nghĩ tới việc quân Hồ còn truy kích, nên đều lơ là phòng bị. Đạt biết trong quân có nội gián của cả người Hồ lẫn cả Gia Lâm, bởi vậy cũng không nói gì kế sách, chỉ triệu các tướng lên chia ra các đạo để cùng rút, ai lãnh binh hiệu quân của người đó. Bởi quân của Đạt hợp từ nhiều quân mà thành, lòng quân lại không nhất trí đồng lòng, lại là mang đi đánh xứ khác nên sĩ khí trong quân cũng không cao, các tướng ở các hiệu quân khác nhau cũng không quản việc các quân không phải của mình nên Đạt dùng cách ấy. Đó là cách trị binh độc đáo riêng của Vu Đạt, bởi vậy Phan Lân dẫn hiệu quân Thiện Tài đi phục kích, các hiệu quân khác của bọn tướng là Tiết Văn Sử, Tư Át, đều không biết gì. Người Hồ chủ yếu cài nội gián vào các lượng quân mà chúng dò la là không theo hướng của Vu Đạt, nên các bí mật cũng được giữ kín, chỉ có những tay chân rất thân tín của Đạt mới biết được.
Tối đến quân đội có lơi lỏng, Tiết Văn Sử hạ trại quân cho binh sĩ nghỉ ngơi, Vu Đạt đến tận trướng vào thăm viếng Cù Trọng Mậu, Văn Sử cùng phó tướng ra tiếp đón cũng hơi lãnh đạm nhạt nhẽo, bọn chúng đều biết chuyến này Vu Đạt về Gia Lâm sẽ bị mất binh quyền, do đó đối xử cũng có khác đi. Đạt cũng tự biết điều đó nên không bày tỏ thái độ gì khác. Đạt nhẩm tính trong đêm nay giặc sẽ đánh vào, bèn vào trong giường Cù Trọng Mậu thăm hỏi ân cần lần cuối, rồi gọi Tiết Văn Sử đến, bảo:
– Tiết tướng quân, ngài chỉ cho quân nghỉ ngơi hai canh giờ, khiến quân sĩ chợp mắt khỏi mệt, kế đó nhổ trại tiếp tục lên đường. Bệnh quân sư đã nguy, về sớm được ngày nào là tốt ngày đó.
Văn Sử nghe như thế, lại chợt mủi lòng thương Vu Đạt, thở dài nói:
– Sớm một ngày, người chết lâu chết hơn một ngày, nhưng người sống lại chết sớm hơn một ngày.
Đạt biết ý, chắp tay nói:
– Tiết tướng quân, chuyến này về Gia Lâm, ngày sau chắc không còn dịp dụng binh cùng nhau nữa. Tôi vẫn biết ngài là môn khách của Lục Báo, tôi không dám tranh phong với Báo, chỉ muốn hỏi ngài rằng do đâu Lục Báo cứ nhất quyết đẩy tôi tới đường cùng thế? Trước nay tôi đều chưa dám tỏ ý tranh quyền bao giờ, tôi chỉ một mực muốn toàn mệnh, sao mà lại phải sợ đứa ngoại tộc như tôi?
Tiết Văn Sử nói:
– Ngài là người không tới nỗi nào, nhưng mà Lục Công Tử rất oán hận ngài, bởi ghen tức với ngài. Đó là vì đại phu nhân yêu quý ngài.
Vu Đạt cười bảo:
– Ta biết ngài là người riêng của Lục Báo. Nếu ta nhận được lệnh gọi về mà trù trừ không về, hoặc có ý giữ binh làm phản, thì Tiết tướng quân đây chắc đã có mật lệnh sẽ lấy đầu ta phải không?
Tiết Văn Sử nói:
– Đánh kẻ làm loạn là chức trách của người trung thần, đâu cần có mật lệnh như thế, nếu ngài làm phản lại cậu Nghị thì tất cả quân sĩ đều sẽ muốn lấy đầu ngài thôi.
Đạt nghe thì biết Văn Sử là người trung nghĩa rồi. Bèn nói:
– Tiết tướng quân, hãy nhớ lời ta khởi hành cho kịp lúc. Trong đêm nay chắc là giặc sẽ tấn công đấy. Ta sẽ cầm quân ở lại cự giặc, ngài cứ đem thầy ta về trước. Khi về tới công đường, nếu quan trên hạch ta tội tự ý tập binh, xin nói đỡ cho ta một lời, để quan cậu hiểu tấm lòng ta đối với Gia Lâm nhé.
Tiết Văn Sử nghe thế hết sức kinh hãi, còn chưa kịp hỏi rõ việc gì thì Vu Đạt đã đứng dậy cáo từ, Văn Sử cố giữ lại nhưng Đạt chỉ bảo:
– Xin nói riêng với Lục Báo, thiên hạ của nhà họ Lục, ta không dám tơ hào, chỉ xin cho ta một con đường sống.
Nói rồi bỏ đi.
…
Đêm ấy canh hai, quân hồ do Mỵ Dung dẫn xuất, ồ ạt tiến đánh đại quân. Bọn Sùng Lan, Hồ Ngột chia quân Tày làm hai đạo đánh thọc vào hai bên sườn quân hậu do Trịnh Giác Tú chỉ huy. Lúc bấy giờ Tú đang ngồi uống rượu với Đại Di, không hề biết trước việc này nên hoảng sợ làm rơi cả ly rượu xuống đất. Đại Di đã được Vu Đạt chỉ cho từ trước, nên nghe tin đại quân giặc tiến đánh, lòng cũng căng thẳng nhưng vẫn bình tĩnh được hơn, liền quan sát Trịnh Giác Tú.
Tú lập tức ra ngoài đốc xuất các phó tướng và các tù trưởng đem quân ra chống nhau với giặc Hồ, tự Tú thân mang áo giáp, xách đại đao ra đánh. Đại Di từ đó mới tin mắt dùng người của Vu Đạt là đúng, kế đó cũng vác đại đao cùng xông ra yểm trợ cho Giác Tú.
Các lớp quân Nùng căng ra đối địch, Mỵ Dung dẫn quân đánh thọc vào trại, quân của Tú tan vỡ, hàng ngũ rối loạn, Mỵ Dung xông lên trong trận thì thấy Giác Tú đang quần nhau với hồ, bèn cưỡi ngựa ra trước mặt nói:
– Ông cũng là người Nùng, đừng chống lại quân Liên Sơn nữa. Nếu ông theo về với chúa ta, ông sẽ được sống, cùng hưởng vinh hoa.
Tú không nói gì, vác đao ra đánh với Mỵ Dung ngay. Dung rút kiếm roi ở thắt lưng ra, dùng xảo thuật chống với Lực thuật của Tú, đánh dử hai hiệp, Tú sấn vào đánh mạnh, Dung giả cách chạy, chạy được lùi vài bước thì có Hồ Ngột là tướng của Trang Páo dẫn quân Nùng xộc vào. Hồ Ngột người to khỏe, cầm đại đao lao đánh với Tú, Tú chống không lại, phải tháo chạy. Hồ Ngột và Mỵ Dung xua quân tràn vào đáng giết quân Nùng rất nhiều.
Bấy giờ có một tướng mặt đỏ như gấc, tay cầm trường thương, đầu đội mũ lông chim, mình trần không cần mặc giáp trụ, cưỡi con ngựa trắng phau lao vào như bay, trong ba bước ngựa đã tiến ngay tới chỗ Trịnh Giác Tú, đoạn vung thương lên đoạt mạng, người đó chính là Trang Páo.
Tú bị đâm vào vai ngã ngựa, viên tướng kia thúc lên toan giết thì lại có một tướng cũng cưỡi ngựa trắng, đội mũ giáp trụ, dùng trường kiếm lao ra đối địch, cứu Tú khỏi trận, người đó là Đại Di.
Páo và Di đứng đối diện nhau giao đấu, hai bên lao vào đánh nhau gần mười hiệp chưa phân thắng bại, quân sĩ dìu Tú lùi ra sau trận, Mỵ Dung xông lên đánh yểm trợ, mình Đại Di phải chống đỡ rất chật vật.
Ngũ Thu Linh cũng đã dẫn hồ quân lên tới, nhìn từ xa, hỏi:
– Ai đang đối địch với chủ công ta?
Các tướng nói:
– Chưa thấy kẻ này.
Thu Linh thầm khen là dũng sĩ, kế lệnh cho phó tướng là Sùng Lan, bảo:
– Đây chỉ là quân bọc hậu thôi, Vu Đạt chắc là giữ Cù Trọng Mậu ở trung quân, ngươi hãy dẫn quân đi thọc vào trung quân, giết xong đám lâu la này ta và chủ công sẽ cùng hội quân hỗ trợ cho ngươi.
Sùng Lan nói:
– Phu Nhân cứ lo cho tốt việc ở đây đi đã. Bắt Vu Đạt thì chỉ mình ta là đủ, không cần phải hỗ trợ.
Nói rồi thúc ngựa dẫn bọn tướng là Sùng A Sinh, Vàng Pấn vượt qua trại quân Trịnh Giác Tú vòng đuổi theo quân sau. Quân của Tú rối loạn, không tài nào cản nổi chúng, toàn quân tan vỡ tứ tán, mỗi người tan ra một nơi.
Sùng Lan dẫn quân đi rồi, Thu Linh cười nhếch mép nói:
– Mày lúc nào cũng chống đối với tao. Chuyến này để Vu Đạt giết mày, cho mày biết sức mày đến đâu.
Nói rồi sai các quân còn lại xốc vào, tàn sát quân của Trịnh Giác Tú.
Ngay lúc ấy có một toán khinh binh xuất hiện trong đêm, lửa cháy rực trời, tiếng ngựa hí ran, mà mặc sắc phục rất khác biệt, người dẫn đầu là một tướng quân mặc giáp đỏ, đội mũ mâu, tay cầm chiếc chùy lớn, chính là Tiểu Di, hét lên:
– Chúng bay trúng kế chủ tao rồi!
Thế rồi dẫn toàn quân xốc vào giữa trận đánh bật quân hồ ra. Trên kiếm của khinh binh đều tẩm sẵn dầu lá chống hồ, loài hồ hít phải hơi dầu này đều sợ hãi, lửa đuốc cháy sáng rực khiến chúng kinh sợ, quân Nùng nghe tiếng la hét cũng tưởng trúng phục binh, dần dà rối loạn. Quân Tày nghe tiếng lại vững dạ, Trịnh Giác Tú nói:
– Liều chết phá vây!
Chúng đánh bật lên rất mạnh, Mỵ Dung đuối thế phải lui xuống. Riêng có Trang Páo như con hổ đã say máu, chỉ cứ nhắm vào Đại Di mà đánh, Đại Di một mình đánh với hai tướng đã thấm mệt, bấy giờ Páo vẫn chưa đuối, Đại Di phải lui.
Quân Nùng thấy Trang Páo, lại vững vàng trở lại. Thu Linh quan sát trận địa, rồi thét lên:
– Phục binh cũng chẳng bao nhiêu, giết hết chúng cho ta!
Tiểu Di cầm chân được giặc, lập tức tổ chức cho quân Nùng di tản dần, kế đó dồn khinh binh lại cuối dụ địch, lúc này chạy đến sát Đại Di, hai anh em vừa đánh vừa rút chạy, quân Nùng tản đi tứ tán. Trang Páo say máu truy kích không ngừng, Hồ Ngột, Mỵ Dung đều thốc quân yểm trợ cho Trang Páo đánh hai anh em, Ngũ Thu Linh dẫn đại quân tiếp hậu, hai anh em quay ngựa bỏ chạy, bị hơn ngàn quân bao vây, khinh binh chết quá nửa, Tiểu Di bị trúng một mũi tên xuyên qua bắp vế, gần rơi khỏi ngựa, được một tướng Nùng là A Gianh túm áo giáp kéo lên mình ngựa. Tiểu Di nói với hắn:
– Đi đi, bảo vệ bằng được Trịnh Tù trưởng của các ông, dẫn quân của người Nùng rút về trại Tây Bắc.
A Gianh đi ngay, Tiểu Di cắn răng, xua khinh binh cùng đồng loạt rút về hướng Phan Lân mật phục. Trang Páo xốc quân đuổi theo, mạng hai tướng đều chí nguy. Ngũ Thu Linh hét lên:
– Thiên hạ đại đồng của người Tày nằm ở trận này! Hết sức công kích làm cỏ quân Gia Lâm cho ta!
Đoạn đốc xuất toàn quân đuổi theo truy kích quân Gia Lâm. Trịnh Giác Tú tan vỡ hết quân, lại bị thương, bọn phó tướng là A Gianh đem đi lẩn vào rừng, bị Hồ Ngột truy kích. A Gianh thúc quân sĩ mang Tú đi nhanh, còn mình quay lại đối địch, sau bị Hồ Ngột chém chết.
Bọn Đại Di, Tiểu Di đều gặp bất lợi, dẫn số khinh binh tàn còn sót lại cố chối chết mà chạy ( Khinh binh: quân trang bị giáp nhẹ, binh khí nhẹ, ngựa khỏe, không chủ dùng để đối địch mà chủ dùng để nghi binh, hoặc cơ động, nên gọi là khinh binh). Trang Páo đuổi rất gấp ngay sau, đụng vào quân khinh nào thì chém chết quân khinh đó, khinh binh rất sợ, chạy ngựa mà không một ai dám quay đầu lại. Bọn Mỵ Dung, A Sinh, Vàng Pấn, đều dốc lực truy kích. Ngũ Thu Linh dẫn quân đi sau cùng, đi tới đâu, thây quân Gia Lâm chất chồng tới đó.