Vu gia liệt truyện

Chương 82



Trọng Mậu xuất thân là đạo sĩ tu luyện, hai mươi ba tuổi thì xuất sơn xuống núi lập công danh, đi thi trên kinh cũng đậu làm quan nhưng không ra, mà cứ lang thang trong giang hồ, đi các nơi xem việc núi non thủy thổ. Sau đến năm ba mươi tuổi thì gặp đi theo Lục Nghị đang lúc còn cảnh cơ hàn, từ đó phụng sự cho Lục Gia kể từ ngày còn ở miền núi cho tới khi Lục Nghị trở thành con rồng lớn xưng bá ở Gia Lâm chưa khi nào rời bên, đến nay ngót đã hai mươi sáu năm, một lòng trung thành không rời. Mậu làm chức tham sự trong công đường, xong làm chức quân sư, chủ hội Tàng Thư, lo về các việc thuế má, khảo từ chứng, xếp đặt quan lại hành chính các xã, tịch, bao nhiêu năm không lấy của ai đồng biếu xén nào, tới khi chết kiểm tài sản trong phủ chẳng có gì cả. Mậu biết các việc nghi lễ, phàm những sự tế cáo cầu đảo trong châu quận đều do tự tay chủ trì, đúng nghiêm phép tắc, mùa màng luôn được thịnh, dân Gia Lâm được hưởng ơn thời vụ mà no ấm đủ đầy lúa gạo. Mậu biết cả thuật át chế quỷ thần, các nơi đất dữ ma quái trong Gia Lâm đều do tay ông trấn yểm, khiến yêu quỷ không thể tác quái, pháp luật được thi hành, mà đạo trời được sáng tỏ. Mậu lại có tài thiên văn, có tài binh pháp, lo đến cả việc quản quân ở xa, bài trí phòng thủ, những người tướng giỏi như bọn Trình Văn Sinh, Sầm Chí Cường, đều đi từ cửa quân sư mà ra, sau đều được Lục Nghị cất nhắc tin dùng, thành phên dậu vững chắc, các loạn đảng cướp trong xứ thì thân cầm binh đi đánh đều được toàn thắng trở về, trong đời chỉ bại trận một lần khi đối mặt với Ngũ Thu Linh, lại dùng nhiều phép thuật quá độ tới nỗi cuối cùng phải sinh ra bệnh tật mà chết. Mậu cúc cung tận tụy mà lại không có người thân, việc lo hậu sự cho Mậu đều là Lục Gia làm cho cả.

Lục Nghị phát tang trong công đường, để cử ai than khóc, Nghị cứ vỗ vào thành quan tài mà khóc, ruột gan đau quặn ai thấy cũng thương cảm, tới mức phát ốm nằm nghỉ trong phủ hai ngày không ra.

Các nhân sĩ trong Gia Lâm chịu ơn của Trọng Mậu rất nhiều, tới ngày phát tang có nhiều người ở xa ngoài trăm dặm cũng về dự lễ, nhiều người tài giỏi mà ngày xưa được Mậu nâng đỡ, được bổ ra làm quan trong kinh thành cũng về Gia Lâm chịu tang.

Lục Nghị nằm ốm, Lục Báo thay cha chủ trì cử ai, đầu chít khăn đại tang mà hầu, sai thủ hạ điểm mặt, họ tên những người tới viếng. Báo sai tham sự là Tôn Minh làm giả một số tờ thư của Mậu, điểm chỉ vào đó, nói về việc cất nhắc tiến cử Báo sau này, rồi đem bí mật đưa cho những tướng lĩnh thân với Mậu về dự tang, hầu hết đều đồng ý phò trợ cho Báo, có nhiều người xin yết kiến Lục Nghị nhưng Báo lấy cớ cha đang quá đau buồn không thể tiếp khách rồi tự mình gặp gỡ thay.

Sáng ngày thứ hai, có một người già tới viếng tang, vào công đường thắp hương.

Người già đó ăn mặc tùy hứng, dân dã nông thôn, đội nón lá, không có lính theo hầu, nhưng những thân sĩ có tuổi trong công đường đều có vẻ rất khiêm cung với người ấy, thấy đi qua ai đều cúi chào cung kính. Báo hỏi Tôn Minh:

– Đó là người nào?

Tôn Minh trả lời:

– Đó là Triệu Chân tướng quân, ngày trước từng giữ chức tham quân trong công đường, sau đắc tội với Phạn tướng quân là anh rể của cậu Lục mà bị ép buộc, cuối cùng phải xin cáo quan về quê làm ruộng, suốt bao nhiêu năm qua không đặt chân về công đường, năm nào cậu Lục cũng tới tận nhà thăm hỏi một lần.

Báo nói:

– Người này còn can hệ gì không?

Tôn Minh đáp:

– Chủ nhân vẫn rất trọng vọng lời nói, nhưng quyền thì không có gì.

Báo bèn bỏ qua không xét tới. Tô Như Cơ là chị vợ của Lục Nghị, lúc bấy giờ đeo mạng trong tang đường, nhìn thấy Triệu Chân thì nhớ lại chuyện cũ ngày xưa bị Chân cắt mũi, liền nói với chồng là hữu tướng quân Phạn Lân, nói:

– Thằng giặc đó làm em ứa gan, mà Trọng Mậu và em rể yêu nó quá nên không làm gì được. Nay Trọng Mậu đã chết, em rể ốm nặng, hay là trả thù?

Phạn Lân là chồng Như Cơ, nói:

– Nó cũng biết phận bao nhiêu năm không dám bén mảng đến, nay có tang nó đến, giết nó sợ thiên hạ cười chê.

Như Cơ nói:

– Cứ cho võ sĩ đi theo, trên đường nó về thì giết đi nói là thổ phỉ giết là xong.

Phạn Lân bèn giao việc đó cho Nguyễn Đông Triều là một tiểu tướng trong phủ Lục Báo. Đông Triều trước lại từng làm học trò của Triệu Chân, cũng thương xót bèn gặp riêng Triệu Chân, nói:

– Vu Đạt đã bị thất sủng rồi, nay đang còn ở bên ngoài mà sắp có họa tới nơi, quyền lực trong công đường giờ ở tay cậu hai họ Lục và Phạn tướng quân cả, ngài thắp hương rồi về, xin hãy mau bước chân.

Triệu Chân thở dài nói:

– Tôi muốn xin gặp cậu mà nghe nói cậu đang đau à? Có thể giúp tôi gặp được không?

Đông Triều đáp:

– Hiện giờ không ai có thể gặp được, xin thầy về chóng cho.

Triệu Chân biết được, khi ra về đi rất vội. Đông Triều sai võ sĩ đi theo ám sát nhưng lưỡng lự chần chừ, sau đuổi không kịp, Triệu Chân đã đi qua sông, võ sĩ bèn quay về. Phạn Lân cũng ngờ Đông Triều có ý cứu vớt nhưng Triều là thân tín của Lục Báo, mà Báo với Triệu Chân lại không có thù nên thôi không nỡ truy tội, bởi vậy mà Triệu Chân thoát được chết.

Đến ngày thứ ba, có Sầm Chí Cường là đại tướng giữ biên giới với đất An Định đích thân về chịu tang, Lục Báo đón tiếp rất cung kính.

Sầm Chí Cường là mãnh tướng trong Gia Lâm, đối với Cù Trọng Mậu thì cùng lứa, thuộc hàng sư đệ, tính ngay thẳng thật thà, chỉ biết cầm quân, không biết chuyện quan lộ, nhờ có Mậu cất nhắc trọng dụng mà được trổ hết tài nghệ, cầm giữ biên giới mười mấy năm trời khiến quân An Định nhiều lần công phá vào Gia Lâm đều không thể được. Người An Định rất sợ Cường, hay gọi là con Nghê đá ở Gia Lâm (con Nghê là con trấn giữ ở những nơi đền đình miếu mạo, nó bằng đá mà vững chắc, quỷ thần muốn vào miếu mà vướng nó thì không thể vào được, gọi là Nghê chỉ rằng Chí Cường thủ thành vững chãi, không thể xâm nhập).

Chí Cường nổi tiếng là liêm trực. Ngày trước Vu Đạt ra biên giới làm phó tướng cho ông, ban đầu ông ghét bỏ cho là trẻ con không có tài, về sau biết được tài của Đạt thì cũng không tị nạnh, lại đổi ghét làm yêu, dạy cho nhiều điều, cũng coi là một vị thầy, bấy giờ ở công đường rất có uy tín. Lục Báo muốn tranh thủ lấy sự ủng hộ của ông để củng cố thế lực, làm xong lễ nghi trên tang đường, liền thết đãi tiệc to muốn tiếp riêng. Trong số các quan tướng đến tang chỉ riêng Chí Cường được đặc ân đó, nhưng Cường đáp:

– Tôi về đây chịu tang quân sư, trong công đường lòng người đang đau buồn, không có lòng nào mà ăn uống.

Rồi cáo biệt ra về. Lục Báo vừa thẹn vừa giận, hỏi Trịnh Phong, Phong đáp:

– Người già thường cổ quái, mà người già vẫn giữ được tiết tháo thì không lay chuyển được đâu. Vị này chính trực, chỉ có cha cậu dùng được chứ tới cậu chắc dùng không được ông ta. Ngày trước Vu Đạt dưới trướng ông ta, nghe nói rất quý mến.

Lục Báo lòng còn tiếc nuối, Phong bảo:

– Đã dùng không được thì nên trừ bỏ, tránh để kẻ khác dùng.

Lục Báo bèn nói với Tôn Minh, Tôn Minh sau đó bổ môn khách là Trần Từ Kiến ra đất Hoàng ở An Định làm phó cho Chí Cường, có ý trừ bỏ Chí Cường.



Cuối ngày tang thứ ba, đại tướng tiên phong là Tiết Văn Sử về đến Gia Lâm, bước vào diện kiến Lục Báo. Báo nói:

– Những ngày vừa rồi ông ở đâu?

Sử đáp:

– Tôi đánh nhau với giặc Thổ Chu bị trọng thương, sau quan quân lui binh về Trường Bình, tôi cũng theo về đó dưỡng thương. Nay mới hơi đỡ, lại nghe quân sư đã mất, tôi gượng lết thân mà về, xin cho chịu tang xong thì chịu tội.

Báo hỏi:

– Ông cùng đi vào Trường Bình với Vu Đạt, sao ông về mà chưa thấy nó về chịu tang thầy nó?

Sử không trả lời được, Báo bèn sinh nghi Sử, nói:

– Việc ông cầm quân bị bại trận, lỗi ở Vu Đạt nhưng ông cũng có trách nhiệm, ông cứ về phủ an nghỉ, tới khi tang xong thì sẽ xét công tội.

Khi thắp hương xong, Sử về phủ Lục Báo xin yết kiến riêng, Báo hỏi:

– Ông đến xin ta chăng?

Tiết Văn Sử đáp:

– Tội của người làm tướng đâu có dám xin xỏ gì? Chỉ xin chịu tội búa rìu mà thôi. Nay tôi tới có việc khác.

– Việc gì?

Báo trình ra một bức thư, nói:

– Vu Đạt tướng quân nhờ tôi chuyển tới thiếu chủ, chỉ xin được hầu hạ dưới cờ, không dám có ý khác. Vu tướng quân sợ hãi uy phong thiếu chủ nên chưa dám về ngay, xin thiếu chủ định đoạt cho ngài ấy về cho tròn đạo học trò.

Báo mở thư xem, lời lẽ trong thư rất ân cần khiêm nhường, tỏ ý trung thành không dám chống trái với Báo, lại dâng thêm mười mâm vàng làm quà xin cho nương tựa, Báo cười nói:

– Ông là người của ta sai đi theo Vu Đạt, mà nay lại đi chuyển thư cho nó à? Ông đã phản ta mà đi theo nó rồi sao?

Văn Sử im lặng không đáp, Báo hỏi:

– Nó đánh nhau với Hồ ly ngoài đó, cùng nằm gai nếm mật, ông thấy thế nào?

Văn Sử đáp:

– Tôi thấy Vu tướng quân một lòng vì việc binh mà không tiếc mạng, lại có tài có thể chống hồ ly, việc này hỏi quân sĩ cùng tham gia đánh trận có thể biết được. Nếu thiếu chủ có thể bao dung cho Vu tướng quân thì rất tốt.

Lục Báo nói:

– Nó là con hổ dữ, có khi nào chịu về dưới ta mà nói ta bao dung? Đó chỉ là cái kế của nó để thoát sự trừng phạt thôi. Ông quá nhẹ dạ, hãy nghĩ cho kĩ.

Tiết Văn Sử vẫn nói:

– Vu tướng quân là người đáng trọng.

Lục Báo bấy giờ nổi giận đập bàn, hất tung cả mâm vàng ròng đồ lễ của Đạt, quát:

– Thằng giặc đó không ở Trường Bình mà làm phản đi, còn viết thư về đây làm gì? Ngày sau tao sẽ chém đầu nó, tịch thu hết cả vàng bạc sản nghiệp của nó, chứ ta cần gì mười mâm vàng này? Còn ông…

Báo trỏ thẳng mặt Tiết Văn Sử, quát:

– Ông là bại tướng, là kẻ có tội, nhưng ông trung thành với ta ta vẫn có thể dung thứ. Mà nay ông lại bênh cho thằng con hoang đó, là đã ăn ở nhị tâm với ta rồi, sao ta có thể bao chứa cho ông đây? Ông hãy về mà đợi quân lệnh.

Tiết Văn Sử thở dài lui ra, không nói một lời.

Hôm sau Báo giao cho hình quan, khép Văn Sử vào tội chết, khi quan quân tới nơi bắt thì Văn Sử đã tự sát ở nhà riêng rồi.

Thật thương thay cho Tiết Văn Sử, là kẻ cầm binh cẩn trọng mà dũng mãnh, cũng là kẻ anh hùng đấy. Sử là thủ hạ của Báo, đi theo Đạt thì không nịnh Đạt, khi Đạt bảo chạy trước, mà lại quay lại cứu Đạt, đó là cái tiết nghĩa đấy. Khi bị trọng thương cùng Đạt về Trường Bình dưỡng thương, vừa lành thương lập tức trở về với Báo, đó là cái tiết trung đấy. Về với Báo rồi vẫn bênh cho Đạt, Văn Sử ở quan trường đã lâu, có đâu không biết chọc giận Lục Báo là bị giết? Nhưng lời chính trực vẫn phải nói ra, chứ cũng không phải là phản bội, đó là cái tiết chính đấy. Thà Văn Sử ở lại Trường Bình mà theo Vu Đạt đi thì còn hơn. Người vừa nghĩa, vừa trung, vừa chính như thế, tiếc là thiếu mất cái minh trí, cái tài ứng biến linh hoạt theo thời cuộc, cuối cùng lại về Gia Lâm để rồi bị giết, thật là đáng tiếc.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.